VẤN ĐỀ HỒ XUÂN HƯƠNG VÀ THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG

Trần Nhuận Minh và Nguyễn Đức Tùng
(đối thoại tháng Ba- trong Đối thoại văn chương)

41. Nguyễn Đức Tùng:
Tác phẩm tiêu biểu hơn cả của Xuân Diệu sau năm 1945, không phải ở lĩnh vực sáng tác mà ở nghiên cứu phê bình, với tập Các nhà thơ cổ điển Việt Nam. Tôi được biết anh có những bài báo viết công phu về cuốn sách này, làm nhiều người chú ý, trong đó có vấn đề Hồ Xuân Hương và thơ Hồ Xuân Hương. Đó là những đề tài thú vị của nghiên cứu văn học và văn học sử.

Trần Nhuận Minh:

Cũng không hẳn chỉ về “nghiên cứu văn học và văn học sử” như anh nói. Đây chính là một trường hợp Thơ đến từ đâu: từ Hồ Xuân Hương thật và Hồ Xuân Hương giả.

Trở lại tác phẩm của Xuân Diệu. Các nhà thơ cổ điển Việt Nam gồm các bài giới thiệu sách, hay nghiên cứu của Xuân Diệu về các nhà thơ lớn của nền văn học cổ Việt Nam, từ Nguyễn Trãi tới Trần Tuấn Khải. Ông viết rất tâm huyết và công phu, câu văn giầu cảm xúc và hình ảnh, có trang cảm thấy như ông viết văn chứ không phải chỉ có làm nghiên cứu với phê bình. Đó là văn của một nhà văn, mà vẫn có nhiều phát hiện rất sắc sảo, nhiều nhận xét rất tinh vi về câu thơ, lao động thơ trong từng chữ, nêu bật được những đóng góp lớn lao của từng nhà văn vào nền văn học dân tộc với những đặc sắc riêng. Tập sách cũng thể hiện kiến thức uyên thâm và sự từng trải về nghề nghiệp của một nhà thơ lớn. Bài Đọc Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, 2 bài trong chùm 7 bài về thơ Nguyễn Du: Chung quanh từ ngữ Truyện Kiều, Bản cáo trạng cuối cùng trong Truyện Kiều và bài Đọc thơ Tú Xương thật mới mẻ và sâu sắc.

Tuy nhiên, tập sách cũng không toàn bích, thậm chí có những lỗ hổng rất lớn mà càng về sau, càng chịu những thử thách nặng nề.

42. Nguyễn Đức Tùng:

Ví dụ?

Trần Nhuận Minh:

Ví như ông nhiệt tình tán dương bài thơ của Nguyễn Trãi, đặt bài thơ ấy trong từ trường nghệ thuật và tư tưởng của Nguyễn Trãi, hoá ra bài thơ lại của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đặc biệt, ông rất nồng nàn ca ngợi Hồ Xuân Hương, nhưng đến ba phần tư số bài thơ ông dẫn ra để suy tôn Hồ Xuân Hương là bà chúa thơ Nôm, thì ngay những người soạn thơ Nôm truyền tụng được coi là của bà, cũng cho là không phải thơ của bà. Còn tôi thì tôi cho rằng TOÀN BỘ thơ Nôm được truyền tụng coi là của Hồ Xuân Hương, đều không phải của Hồ Xuân Hương. Và suy tôn Hồ Xuân Hương (thật) là Bà chúa thơ Nôm là không có cơ sở.

43. Nguyễn Đức Tùng:

Anh có thể làm nhiều người giật mình. Anh đang chạm đến những vấn đề của lịch sử văn học.

Trần Nhuận Minh:

Đúng thế. Nhưng tôi không phải là người đầu tiên nói về vấn đề này.

Trong tập sách kể trên, Hồ Xuân Hương – bà chúa thơ Nôm là bài viết tiêu biểu hơn cả. Xuân Diệu đã viết và sửa công phu chuyên luận 83 trang này liên tục 22 năm từ 1958 đến 1980. Thực ra thì Xuân Diệu không phải là người đầu tiên đưa ra khái niệm này. Trước ông từ 8 đến 30 năm, từ năm 1950, Lê Tâm đã gọi Hồ Xuân Hương là Bà chúa thơ Nôm rồi. Bạn sẽ thấy rõ điều đó trong tập sách mỏng có tên là Thân thế và thi ca Hồ Xuân Hương của Lê Tâm, do Nhà xuất bản Cây Thông, Hà Nội, ấn hành năm 1950.

Đây là một vấn đề rất lớn và rất phức tạp, tồn tại nhiều chục năm, cũng có cơ sở để kết thúc được rồi, nếu người ta muốn kết thúc, muốn mọi sự rõ ràng. Mà bạch hóa là cái rất khó được thực hiện ở Việt Nam ta. Từ thời Lê, cụ Nguyễn Gia Thiều đã viết:

Cái quay búng sẵn trên trời
Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm

Ý cụ Nguyễn có độ bao quát lớn về triết học và nhân sinh, nhưng trong trường hợp này, tôi thấy cụ Nguyễn như nói hộ mình. Chúng ta phải ra khỏi cái sự “đi đêm” ấy, mới hy vọng bạch hóa được. Do đâu? Do cơ chế của xã hội phong kiến hoặc có tính chất phong kiến? Do thói quen…? Dù là do cái gì thì đó cũng là một thực tế. Vì vậy, cho phép tôi nói sòng phẳng và dài rộng hơn một chút.

Những bài thơ Nôm đầu tiên được coi là của Hồ Xuân Hương, xuất bản ở Hải Phòng, năm 1913, như một tài liệu không chính thức. Bốn năm sau, năm 1917, Đông Khê Nguyễn Hữu Tiến xuất bản Giai nhân di mặc, toàn những chuyện hư cấu… trong đó có chuyện Hồ Xuân Hương và thơ Hồ Xuân Hương… dĩ nhiên, cũng là những thứ “hư cấu”. Ấy thế mà có nhà phê bình lại dựa vào đó mà soạn ra Thân thế và sự nghiệp của Hồ Xuân Hương và đánh giá thơ văn của bà, như một tác giả chính thức và tác giả đó có mặt thực sự trong đời sống xã hội. Thấy bán được, các nhà xuất bản tiếp theo in thơ Hồ Xuân Hương như một tác giả thực thụ và số bài mỗi lần in một tăng lên, cuối cùng đến hơn 200 bài thì thôi, bởi không thể tăng được nữa, trong đó có khoảng 30 bài độc đáo và đặc sắc, thường có mặt trong các lần in khác nhau.

Xung quanh tiểu sử của nữ sĩ Hồ Xuân Hương, có một số điều đã được thời gian bạch hóa. Đến nay thì việc bà là vợ kế (chứ không phải vợ lẽ) quan tham hiệp trấn Yên Quảng (tỉnh Quảng Ninh ngày nay) đã rõ. Bà đã hai lần từ Nghi Tàm (Hồ Tây, Thăng Long) về Yên Quảng bằng thuyền, thăm người yêu, là ông Trần Phúc Hiển, để lại 2 bài thơ tình chữ Nôm viết bên bờ sông Bạch Đằng và 5 bài thơ chữ Hán về vịnh Hạ Long, đã in trong tập Lưu Hương ký, từ năm 1814, thì cũng đã rõ. Như vậy, bà ở hẳn tại Yên Quảng từ năm 1815 (khi ông Hiển cưới bà, thường cho bà dự vào việc quan) đến khi chồng bà bị bắt (tháng 5 năm 1818) chịu án tử hình (1819), vì đã nhận hối lộ 700 quan tiền, (dù bố chồng bà là tướng Trần Phúc Nhân, đã từng giúp vua Gia Long đánh thắng Tây Sơn rồi tử trận). Việc chồng bà chết ở Yên Quảng năm 1819, cũng đã rõ, vì điều đó còn ghi trong Thực lục của nhà Nguyễn. Khi vua Minh Mạng rà soát lại các bản án liên quan đến các quan, ông rất chú ý đến vụ án quan Tham hiệp trấn Yên Quảng Trần Phúc Hiển, ông phê vào bên cạnh: “Tham nhũng như thế mà không giết, thì lấy gì mà khuyến liêm”.

Căn cứ vào các tư liệu mới phát hiện và không còn gì phải tranh cãi này, mà người ta đã xác định được năm sinh của Hồ Xuân Hương là 1772, đặc biệt năm mất là 1822. Điều đó đã được dòng họ Hồ Quỳnh Đôi Nghệ An, quê hương bà, cho khắc vào tấm bia đá lớn, thờ ở ngay đầu làng.

Nếu năm mất được xác nhận là 1822, thì nơi mất có thể có cơ sở, là chùa Giải Oan ở Yên Tử, vì cùng một nguồn tư liệu. Theo tư liệu trên, sau khi chồng chết, để thể hiện lòng thủy chung đúng đạo nhà nho của bà, bà đi tu ở Yên Tử và khi mãn tang chồng thì chết theo chồng ở đây. Bà yêu thi hào Nguyễn Du, điều đó cũng đã rõ vì bà có thơ tặng người cũ là Nguyễn Du, có chép trong Lưu Hương ký (sẽ dẫn ở phần sau). Được biết, người bạn thân của Nguyễn Du là Phạm Quý Thích, như một tài liệu cũ đã xác nhận; có đến Yên Tử thăm bà, trước khi bà tự tử. Chồng bà (Trần Phúc Hiển) mất năm 1819, bà mất năm 1822, năm 1823, phủ Tam Đới, nơi ông Hiển từng làm tri phủ khoảng hơn 10 năm trước, mới đổi tên là phủ Vĩnh Tường. Vậy bài thơ Khóc ông phủ Vĩnh Tường mà hàng chục năm nay gán bừa cho bà là không phải của bà vậy. Ấy là chưa kể, khi chồng chết vì án tử hình, liệu có bà vợ nào nỡ khóc chồng:

Cán cân tạo hóa rơi đâu mất
Miệng túi càn khôn khép lại rồi.

Ta hiểu cán cân kia và miệng túi ấy là cái gì rồi. Khóc thế không những vô văn hóa mà còn vô cả đạo lý nữa. Ấy là chưa kể, khi phủ Vĩnh Tường có tên, thì Hồ Xuân Hương cũng đã chết rồi.

Còn mộ bà hiện nay ở đâu? Có cơ sở để nghĩ rằng, sau mấy năm hung táng ở Yên Tử, thân nhân đã đưa hài cốt bà về nơi ở của bà trước khi làm vợ kế ông Hiển, là ở Nghi Tàm, gần Hồ Tây. Có nhà nghiên cứu đã căn cứ vào bài thơ Long Biên trúc chi từ của Tùng Thiện vương Nguyễn Phúc Miên Thẩm, con vua Minh Mạng, em ruột vua Thiệu Trị nhà Nguyễn, in trong Thượng sơn thi tập, mà đưa ra giả thuyết: mộ bà ở bên hồ Tây, và bây giờ có thể là ở lòng hồ, gần bờ hồ.

44. Nguyễn Đức Tùng:

Như thế có lẽ bài Khóc ông phủ Vĩnh Tường không phải của Hồ Xuân Hương, đúng như anh nói. Nhưng những bài khác thì không chắc như thế.

Trần Nhuận Minh:

Chắc chứ! Sao lại không? Căn cứ vào đâu? Vào chính ý kiến của bà Hồ Xuân Hương. Bàn về thơ bà mà lại cứ đơn phương gạt ý kiến của bà ra thì rõ ràng là rất phi lý. Trong tập Lưu Hương ký, mà theo bài Tựa của ông Tốn Phong viết, hiện vẫn còn in ở đầu sách, thì Hồ Xuân Hương nói rằng: “đây là toàn bộ thơ của cuộc đời tôi từ trước đến nay”, trong đó không có bất cứ một bài nào trong số tất cả các bài thơ Nôm truyền tụng thường được gán cho bà. Như vậy, theo ý của chính bà, các bài thơ ở ngoài Lưu Hương ký đều không phải thơ của bà. Và ngày nay, chúng ta coi thơ truyền tụng kia, không phải là thơ của bà, chính là tôn trọng bà vậy. Trong bài Tựa nói trên, viết tháng 3 năm Giáp Tuất (1814), Tốn Phong nhận xét, thơ Hồ Xuân Hương “xuất phát từ cảm hứng nhưng biết dừng lại ở phạm vi lễ nghĩa. Vui mà không đến nỗi buông tuồng… thơ đúng phép mà văn hoa…” Đọc Lưu Hương ký mới thấy Tốn Phong nhận xét thơ bà như thế là rất chuẩn xác.

Như vậy, thơ thực của bà hoàn toàn xa lạ với thơ được coi là của bà.

Căn cứ vào lời Tựa của Tốn Phong: “Khi hỏi đến tên họ, mới biết cô ta là em gái ông lớn họ Hồ, đậu Hoàng Giáp, người làng Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu”, từ đó, các nhà nghiên cứu mới bạch hóa được tiểu sử của Hồ Xuân Hương. Làng Hoàn Hậu nay là làng Quỳnh Đôi. Bà là con Hồ Sĩ Danh, chứ không phải con Hồ Phi Diễn, như các sách giáo khoa đã ghi từ mấy chục năm nay, vì Hồ Phi Diễn không có con đỗ Hoàng Giáp và làm ông lớn. Hồ Phi Diễn và Hồ Sĩ Danh là anh em con chú con bác, lại rất xa nhau, kể ngược lên đến đời thứ 10 mới cùng một ông tổ. Bà là em ruột Hồ Sĩ Đống (1738 – 1785), đậu Đình nguyên, đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân, (tức Hoàng Giáp), làm quan đến Hành tham tụng, (quyền Tể tướng) tước Quận công, cùng với Bồi tụng Bùi Huy Bích, đứng đầu chính phủ thời Trịnh Sâm và Trịnh Khải. Hồ Sĩ Danh (1706 – 1783), chỉ đậu Hương cống (tức Cử nhân), không ra làm quan, nhưng có con làm to, được phong tặng chức Hàn lâm thừa chỉ, hàm Thái bảo. Như vậy là đã rõ.

Xuân Diệu còn khẳng định: đặc trưng để bà có lối thơ ám chỉ cái ấy của phụ nữ và chuyện ấy trong buồng kín, tạo thành đặc sắc, “có một không hai trong văn học Việt Nam, có lẽ trong văn học thế giới. Đó là một kỹ nữ”, mà các quyển Từ điển tiếng Việt đều ghi kỹ nữ là gái mại dâm (là làm đĩ).

45. Nguyễn Đức Tùng:

Tôi xin phép dừng lại, mở ngoặc và đóng ngoặc ở đây. Nếu quả thật định nghĩa của các từ điển tiếng Việt rằng kỹ nữ là “gái mại dâm”, “là làm đĩ”, thì tôi không đồng ý, mặc dù dĩ nhiên đó không phải là nghề được xã hội tôn trọng.

Và mặc dù:

Lời kỹ nữ đã vỡ vì nước mắt
Cuộc yêu đương gay gắt vị làng chơi

Làng chơi thì không thể đứng đắn được. Nhưng mà:

Chớ đạp hồn em! Trăng từ viễn xứ
Đi khoan thai lên ngự đỉnh trời tròn
(Xuân Diệu)

Tôi có bênh vực các kỹ nữ nhiều quá không? Nhưng xin đóng ngoặc và quay lại với câu chuyện chính của chúng ta về Hồ Xuân Hương.

Trần Nhuận Minh:

Chả riêng gì anh, tôi cũng bênh vực kỹ nữ, không phải vì thơ Xuân Diệu mà vì cô Kiều rất đáng yêu của chúng ta. Cô Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du là gái làng chơi, làm nghề chơi, là kỹ nữ đấy.

Nghề chơi cũng lắm công phu
Làng chơi ta phải biết cho đủ điều

Đấy là lời của mụ chủ nhà chứa Tú Bà dạy cô Kiều (chữ Nghề chơi và Làng chơi là do tôi nhấn mạnh). Nhưng đó lại là vấn đề khác. Ở đây là nói về chữ nghĩa trong Từ điển, theo ý kiến “không đồng ý” của anh. Tôi nói có sách, mách có chứng. Trên bàn làm việc của tôi là quyển Từ điển tiếng Việt của viện Ngôn ngữ học Việt Nam, trung tâm Từ điển học và nhà xuất bản Đà Nẵng, in năm 2002, do giáo sư Hoàng Phê làm chủ biên, có bút tích đầu trang của Thủ tướng chính phủ Phạm Văn Đồng, với sự tham gia của giáo sư Hoàng Tuệ và 15 nhà khoa học khác. Sách in lần thứ 8, có sửa chữa đợt 2, gồm 39 924 mục từ, dày 1 222 trang, khổ 14,5 x 20,5 cm, trong đó, trang 520, ghi: Kỹ nữ cv. kỹ nữ d. (cũ: vch) Gái mại dâm. (Chú thích trước ở đầu sách ghi rõ: cv. là cũng viết; d. là danh từ; cũ: vch là trong văn chương cũ thì gọi là kỹ nữ, còn ngoài đời (hiện nay) thì gọi là gái mại dâm). Lại nói: thiên phóng sự Làm đĩ rất nổi tiếng của Vũ Trọng Phụng là viết về gái mại dâm đấy.

Trở lại với tác phẩm của Xuân Diệu, xin dẫn nguyên văn. Sách Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, phần Hồ Xuân Hương, bà chúa thơ Nôm, Nhà xuất bản Văn học, 1998, có một mục viết hoa THIÊN TÀI, Kỹ NỮ, trong đó, trang 377 – 378, Xuân Diệu viết: “Tâm hồn Xuân Hương đẹp đẽ như vậy. Và do một số điều kiện sinh lý nào đó, với do hoàn cảnh gia đình xã hội ở thời đại Xuân Hương, tâm hồn ấy cũng là hiện tượng độc đáo kỳ lạ, có thể nói là một không hai trong văn học Việt Nam, có lẽ trong văn học thế giới. Đó là một kỹ nữ” (tôi nhấn mạnh – TNM). Trang 382, Xuân Diệu còn nói rõ hơn: “ Chẳng lẽ bây giờ, ta yêu cầu Xuân Hương đừng là kỹ nữ nữa? Như vậy là ta đã mất Xuân Hương”.

Đến đây thì ai cũng biết: nhà thơ Xuân Hương họ Hồ Quỳnh Đôi, Nghệ An, vợ kế quan Tham hiệp trấn Yên Quảng, từng yêu Cần Chánh điện học sĩ – Hầu tước Nguyễn Du, chú ruột vợ vua Gia Long, em ruột tể tướng Nguyễn Khản, con ruột tể tướng Nguyễn Nghiễm… bản thân bà cũng có anh con bà cả làm tể tướng, bố chồng hàm Thái bảo, một trong ba tước cao nhất của triều đình, như đã nói trên, không phải là gái làm nghề… mại dâm. Trong nghiên cứu khoa học, cứ liệu nền tảng không vững vàng, ổn định, thì các luận điểm đưa ra, chắc chắn không vững bền, dù tác giả của những luận điểm ấy là một người có uy tín rất lớn. Theo tôi, công trình rất nổi tiếng Hồ Xuân Hương, bà chúa thơ Nôm này của Xuân Diệu là không có cơ sở khoa học, dứt khoát sẽ tự sụp đổ, chỉ có sớm hơn hay muộn hơn mà thôi.

Tôi đồng tình với nhận định của giáo sư Hoàng Xuân Hãn đưa ra tại Paris (Pháp) từ năm 1952 và giáo sư Trần Thanh Mại, đưa ra tại Hà Nội năm 1964, cho rằng, TOÀN BỘ thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương, tất thảy đều không phải của Hồ Xuân Hương mà là thơ dân gian của các ông đồ, sáng tác và nhuận sắc cùng thời với truyện Trạng Quỳnh, Trạng Lợn.

Để hiểu quá trình dân gian hóa thơ được coi là của Hồ Xuân Hương, tôi chỉ dẫn một bài là Chơi đu rất nổi tiếng, gọi là của Hồ Xuân Hương (1814), đã có trong thơ Lê Thánh Tông (1442 – 1497):

Bốn cột lang nha khéo trồng
Ả đánh cái, ả còn ngong
Vái thổ địa, khom khom cật
Khấn hoàng thiên, ngửa ngửa lòng…

Thơ thời Lê của Nguyễn Trãi hay Lê Thánh Tông thường có câu lục ngôn lẫn với câu thất ngôn. Tôi thấy thơ vua Lê, âm hưởng rất hay, hình ảnh rất đẹp và sang trọng. Bốn cột người đứng đầu xã (lang nha) đã cho trồng, để dựng cây đu. Ả lên chơi đu (đánh cái) rồi, ả còn chờ đến lượt mình. Chữ ngong chính là chứ ngóng biến dạng mà thành. Hai câu tả chơi đu rất chuẩn xác mà rất gợi cảm, khi cây đu quay lại, người cúi xuống là vái đất, lúc cây đu hất lên, người ngửa ra là khấn trời, vì hai tay bao giờ cũng phải giữ chặt dây đu, cao ngang mặt… Hai câu thơ rất tài nghệ đó, khi bị “Hồ Xuân Hương hoá” là lập tức có “mùi giường chiếu” ngay, để người đọc hình dung cái “chuyện ấy”:

Trai cong gối hạc, khom khom cật
Gái uốn lưng ong, ngửa ngửa lòng…

46. Nguyễn Đức Tùng:

Nhiều người thuộc thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương, những bài mà anh nói không phải của bà. Nhưng không phải ai cũng đọc Lưu Hương ký. Anh nhớ bài tiêu biểu nào không?

Trần Nhuận Minh:

Nói tiêu biểu thì cũng khó. Xin dẫn nguyên văn hai bài thơ của Hồ Xuân Hương trong Lưu Hương ký có liên quan đến các ý đã trình bày ở trên. Bài thứ nhất về mối tình của bà với quan Tham hiệp trấn Yên Quảng, Trần Phúc Hiển, lúc bà về thăm ông, ở trấn lỵ Yên Quảng, nay là thị xã Quảng Yên, bên bờ sông Bạch Đằng, khi ông chưa cưới bà làm vợ. Đọc bài thơ này, các bạn sẽ thấy bà Hồ Xuân Hương yêu ông Hiển đến mức nào, chỉ lo ông Hiển không giữ lời hứa với mình:

BẠCH ĐẰNG GIANG TẠM BIỆT

Khấp khểnh đường mây bước lại dừng
Là duyên là nợ phải hay chăng
Vun hoa khéo kẻo lay cành gấm
Vục nước mà xem động bóng giăng
Lòng nọ chớ rằng mây nhạt nhạt
Lời kia nay đã núi giăng giăng
Với nhau tình nghĩa sao là trọn
Chớ có lưng vơi cỡ nước Đằng…

Các sách đều chú thích nước Đằng là một quốc gia nhỏ bé bên Trung Quốc. Theo tôi, chú thích thế là sai. Nước Đằng chỉ là nước sông Bạch Đằng khi lưng, khi vơi theo mức lên xuống của thuỷ triều. Bà Hương nhắc ông Hiển lòng dạ yêu bà chớ có như thế.

Bài thứ hai là nỗi nhớ người cũ, gửi “Hầu Nghi Xuân Tiên Điền nhân”:

CẢM CỰU KIÊM TRÌNH
CẦN CHÁNH HỌC SĨ NGUYỄN HẦU

(Hầu Nghi Xuân Tiên Điền nhân)

Dặm khách muôn ngàn nỗi nhớ mong
Mượn ai tới đấy gửi cho cùng
Chữ tình chốc đã ba năm vẹn
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không
Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập
Phấn son càng tủi phận long đong
Biết còn mảy chút sương siu mấy
Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong

Nguyên tác ghi rõ Hầu người làng Tiên Điền huyện Nghi Xuân. Như vậy, Nguyễn Hầu ở đây đúng là Nguyễn Du, người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, được phong tước Hầu (Du Đức hầu). Tháng 2 năm Quý Dậu (1813), vua Gia Long bổ nhiệm ông làm Cần chánh điện học sĩ, rồi cử làm Chánh sứ sang Trung Quốc.

Share this post

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on linkedin
Share on pinterest
Share on print
Share on email

Leave a Reply