Nguyễn Đức Tùng
1. MỘT BUỔI SÁNG
Một lần lúc con lên bốn tuổi, Timmy. Buổi sáng khi ba cúi xuống hôn con trên giường, con vẫn ngủ say. Hai cha con chúng ta ngủ chung một giường, sau này rất lâu khi con đã lớn rồi, vẫn vậy. Đó là buổi sáng thứ Hai, sau ngày lễ, mùa hè, mọi người đều hối hả bận rộn. Ba đã vào garage, mở cửa sau, nổ máy xe, nhưng nhớ ra để quên cái cặp. Xe vẫn nổ máy, ba mở cửa chạy vào nhà, lên phòng lấy cái cặp, rồi chạy ngược ra xe. Cửa sau của garage vẫn mở, ba vội vàng lùi xe ra khỏi cửa. Đúng lúc ấy, trong kính chiếu hậu loang loáng thấy hình ảnh một vật gì như một đứa bé, ba vội đạp thắng theo phản xạ, đạp lút thắng, bánh xe rít ken két trên mặt nhựa.
Chiếc xe Jeep màu xanh lá cây của ba xoay vòng, rung lên bần bật, đập vào tường.
Đứa bé ấy chính là con.
Thì ra vào lúc ba mở cửa vào nhà vào phòng sách tìm cái cặp, con đã thức dậy và thấy vắng ba, nên đã chạy thoắt ra ngoài tìm. Con đứng ngay sau nhà để xe, phía cửa mở, chờ ba ở đó, ngay sau chiếc xe đang nổ máy rì rầm.
Chỉ một tích tắc nửa thôi chiếc xe của ba đã tông vào con. Chỉ cách một gang tay.
Đôi khi trong đời chúng ta đánh mất một người thân, mẹ hay cha, thầy hay trò, anh chị em hay bè bạn, mất bóng dáng của họ sau một cánh cổng, không nhìn thấy họ đâu nữa sau một khúc quanh, mất họ trên một dòng sông, mất họ sau một bến phà. Rồi chúng ta tìm lại được nhau, sau cánh cổng ấy, sau bến phà ấy, sau khúc quanh ấy, trên dòng sông ấy.
Có khi không được thế.
Chúng ta không có nhiều thời gian để mất như thế nữa.
2. CHẠY CHẬM LẠI
Trong ngày mãn khóa của năm học vừa qua, lớp Năm, con khoe với ba rằng, lớp của con là đội tuyển giành giải nhất kỳ thi chạy toàn trường. Trong lớp, con chạy cũng nhanh nhất, ngang với Hugo, bạn thân của con. Chúc mừng hai đứa.
Chạy nhanh là một năng lực đặc biệt. Ai cũng biết thể thao là cần thiết, nhất là cho học sinh. Nhưng có một lần mới đây khi đang chạy bộ trên đường, ba nghe tiếng một người gọi với theo mình: chạy chậm lại, slow down, chạy chậm lại.
Và ba đã chạy chậm lại.
Nhưng khi ngoái nhìn ra sau, có một người đàn bà đang dẫn một đứa con trai nhỏ, hai mẹ con đi trên lề đường, và thằng bé có lẽ nhỏ hơn con vài tuổi, chạy lon ton phía trước. Bà ta nói với đứa trẻ kia, slow down, chứ không phải với ba.
Sau này, khi lớn lên, con sẽ biết rằng, có những lúc không phải bao giờ chạy nhanh cũng tốt cho mình hay cho người khác.
Chạy chậm lại, nhưng chạy đều, giữ sức thật lâu, chạy chậm nhưng chạy một mạch, cho đến khi con tới đích.
3. TRƯỜNG HỌC CŨ (THƯ CỦA CÔ GIÁO NGUYỄN THỊ NƯƠNG, HÀ NỘI)
Tuần trước, chúng ta có dịp đi bộ ngang qua trường học cũ của con, nhưng con cứ mãi đi mà không nhìn vào. Ngôi trường con đã học thời mẫu giáo và lớp một trước khi chuyển tới trường khác.
Đó là điều đáng tiếc. Có lẽ bây giờ con còn chưa kịp nghĩ về trường cũ, chưa có dịp đánh mất nó. Lần sau nếu có dịp đi qua, con nên bước chậm lại ngoái nhìn một lát.
Ký ức. Ta sinh ra ở một mảnh đất nghèo khó nhưng được học ở một trường tiểu học thuộc loại đẹp nhất. Trường bên sông có sân cỏ lớn làm bãi đáp trực thăng, ở đó bọn ta tha hồ chơi bóng đá và thể thao, quanh sân trường có dương liễu cao vút. Giữa sân có tấm bản đồ Việt Nam xây bằng gạch nổi lên giữa mặt hồ sen và súng. Trong chiến tranh nó đã bị phá hủy hoàn toàn. Khi hòa bình lập lại một trong những nơi đầu tiên ta trở về thăm là trường cũ, nhưng nó không còn nữa. Ta đã ngồi trên sân trường giờ chỉ còn là những đống gạch đá và đám cỏ lau mọc ngang đầu, ngồi suốt một buổi chiều. Khi nước mắt đã khô đi từ lâu, ta quyết định rằng dù thế nào ngôi trường ấy vẫn còn mãi trong lòng mình, trong ký ức tuổi thơ và sẽ nhớ lại từng chi tiết từng gốc cây, những căn phòng học, mái ngói đỏ, mùa hè chim sẻ ríu rít, khu vườn trồng nhiều ổi và cam, sẽ nhớ thầy học cũ và bạn bè ngày trước.
Một nhà triết học cổ đại nói rằng không ai có thể tắm hai lần trên một dòng sông, ý nói sự vật mỗi giờ mỗi ngày thay đổi. Ta tin rằng có thể trở lại tắm trên dòng sông ấy, cùng làn nước ấy, bằng ký ức của mình. Chỉ có tuổi thơ là lưu giữ được hai thứ: ngôi nhà thơ ấu và ngôi trường thơ ấu. Quê hương của một người có thể không phải là nơi chốn đẹp nhất trên trái đất nhưng là nơi đẹp nhất đối với người ấy. Chúng ta càng lớn lên càng già đi càng phải trẻ lại, như một người đi xa tìm cách trở về. Dù ngôi trường ấy có thể lớn hay nhỏ, nhiều phòng hay chỉ một vài phòng học, ngoài đường có liễu hay chẳng có cây cối gì, tường sơn màu trắng hay xám thì chúng cũng là tình yêu đầu tiên. Trên sân trường có thể có tấm bản đồ bằng gạch hay không, có cái hồ nước nhỏ hay chỉ có chiếc đu quay, cây bàng đỏ hay cây phong vàng hổ phách, hay một điều gì chỉ có chúng ta mới biết. Con sẽ mang theo trong tâm hồn mình hồ nước ấy, chiếc đu, cây bàng, cây phong ấy, như một căn nhà yêu dấu, nơi trú ẩn an toàn, khi con lớn lên.
4. ÂM NHẠC
Ở trong căn nhà cũ của ông bà ngoại con, nay dùng để cho thuê, có một người phụ nữ trẻ, gốc Ý, làm nghề thợ may. Một lần khi đến đó để trồng lại cây mận trước nhà sau cơn bão, chúng ta đã nghe cô ấy, đứng giữa những đống áo quần cao ngất, những cuộn chỉ xanh đỏ vàng sặc sỡ, hát opera. Con nhớ không. Hãy gọi cô ấy là Sophia. Con tỏ ra không thích nhạc kịch opera, hồi trước ta cũng không thích, bây giờ thì có khác. Nhưng hãy nghe câu chuyện của Sophia. Trước khi dọn đến đây, cô ở trong một chung cư nhiều căn phòng. Ngay sau khi dọn vào nơi ấy, cô bị mất ngủ vì mỗi đêm có một đứa bé trai khóc thét lên ở phòng bên cạnh. Người mẹ là thiếu nữ nhỏ tuổi, hình như chưa tới tuổi thành niên, ở một mình, không chồng. Cô ta uống rượu và đánh bạc suốt ngày, thường ngồi ngoài hành lang tán nhảm với bạn bè, để mặc con ngủ một mình trong tối.
Thằng bé mới được một tuổi, đôi khi mệt lả chợp mắt một lát thức dậy lại khóc. Cứ suốt đêm như thế. Sophia cố gắng nói chuyện với người mẹ nhưng không thành công, chứng nào vẫn tật ấy. Một đêm không ngủ được, Sophia nhớ ra rằng cô là ca sĩ: cô thường hát trong các nhà thờ và các ban nhạc cộng đồng. Vậy là mỗi tối, sau khi ăn tối xong cô bắc ghế ngồi sát vào tường, giữ im lặng, lắng nghe tiếng khóc của đứa bé, làm quen với tiếng khóc ấy.
Một đứa bé khóc thì có gì mà nghe? con có thể hỏi. Nhưng những đứa trẻ có cách khóc khác nhau, trong những tâm trạng khác nhau: sợ hãi, buồn rầu, giận dữ, hay đơn giản vì đói. Vậy thì Sophia lắng nghe tiếng khóc và bắt đầu hát. Trước hết cô chọn những bài hát lullaby nhẹ nhàng mà cô nghĩ là thích hợp với nó, sau đó vài điệu trữ tình nữa. Mới đầu đứa bé ngạc nhiên, im bặt, lát sau lại khóc tiếp. Nhưng chỉ sau hai hay ba đêm thôi thằng bé đã hết khóc hẳn khi cô bắt đầu cất giọng hát và ngủ luôn một mạch đến sáng. Âm nhạc đã làm cho một tâm hồn bé dại và đau khổ tìm thấy an bình trong bóng tối, trong cuộc đời vừa mới bắt đầu của nó.
5. CHÁY RỪNG
Ở miền Tây Canada mùa hè này rất khô hạn, cháy rừng khắp nơi.
Trên đường đi câu cá về nhà, chúng ta băng qua một khu rừng có mùi cháy khét, con nhớ không. Mặt đất khô, nứt nẻ, nóng bỏng. Đó là buổi chiều tháng tám, trước ngày khai trường. Những trận cháy rừng kéo dài mấy tuần liền, vẫn còn tiếp tục, khói bay mù mịt bầu trời, cay mắt. Con tìm thấy một đống lửa hình như có người dập chưa kỹ, tro tàn ngún khói, và chúng ta lội bộ xuống suối thật xa để xách nước về dập tắt ngọn lửa âm ỉ ấy.
Khi ta còn nhỏ tuổi, bằng tuổi con bây giờ, ta đã trải qua một mùa hạn như thế. Đêm nóng bức như một kẻ chờ đợi khách phương xa, ướt đẫm mồ hôi, trở mình suốt đêm, nghe tiếng muỗi. Một lần nọ trong đêm có tiếng la hét dữ dội, cả xóm bừng dậy. Lửa cháy đỏ rực góc trời. Đứng trong cửa sổ, chín tuổi, nhà cháy ở góc xóm nhỏ. Nhà ở thôn quê thời ấy làm bằng các vật liệu như tranh tre nứa rất dễ bén lửa. Sau này ta biết rằng ngôi nhà ấy cháy không phải vì tai nạn, mà một người đàn ông quá đau khổ đã đốt nhà, căn lều nhỏ ở gần bến sông, và ra đi. Đám cháy để lại trong lòng ta vết bỏng.
Buổi chiều ấy khi hai chúng ta băng qua rừng, con đã đứng lại một lúc. Ta đã vòng tay qua lưng con, ôm khẽ. Con đã để yên trong tay ta, thật lâu. Trong không gian, mùi khói, mùi lá và côn trùng cháy khét, mây mù, mặt đất khô, trước mặt chúng ta, mặt trời đỏ rực, đó là một màu đỏ không thể nào quên, đỏ lừ đừ, hung dữ, khao khát, buồn rầu, hủy diệt. Màu đỏ của những cuộc cháy rừng, của những cuộc chiến tranh, lúc nào cũng rình rập nhân loại. Ở dưới chân con có một mẩu gỗ đã cháy thành than, con cầm lên, thả xuống trên nền đất cứng, hòn than kêu loong coong như kim khí. Con biết rằng đó là gỗ quý. Ta đã gặp thứ gỗ quý này cháy thành than khi bị đốt rừng, cuối những năm một chín bảy mươi thế kỷ trước ở vùng miền đông Nam bộ. Ở nhiều nơi trên thế giới, hiện nay, ngay vào lúc này đây, sự hủy diệt ấy vẫn còn tiếp tục. Đôi khi dưới những hình thức khác, đôi khi giống hệt như vậy, một trận cháy rừng.
6. VẾT THƯƠNG
Trên thái dương bên trái, gần chân mày, có một vết sẹo dài. Ba đang nói về khuôn mặt của H., người bạn cũ của ba thời tiểu học. Gặp lại khi về làng.
Thấy ta nhìn đăm đăm, bác ấy bảo: vết thương này do nhà ngươi gây nên.
– Thật không?
– Thật.
– Bao giờ?
– Bốn mươi năm rồi.
Vậy là lúc hai chúng ta học lớp ba hay lớp bốn.
– Khó tin. Ai mà nhớ những chuyện ấy, ta nói.
– Bạn có thể quên, nhưng mình không quên. Chúng ta leo qua hàng rào bác thợ hớt tóc hái trộm ổi một buổi trưa. Khi chơi đùa, bạn vô ý đẩy ta té nhào từ trên hàng rào cao xuống, cào xước mặt vào một hòn đá.
– Hàng rào nào, vườn nhà ai, ta không thể nhớ. Ta không thể nhớ đó là buổi trưa hay buổi chiều. Nhưng H. mang vết sẹo ấy trên mặt, nhỏ thôi, hơi dài, không để ý thì cũng khó thấy, nhưng bạn ấy nhìn thấy nó mỗi ngày khi soi gương.
Thấy nó chảy máu. Thấy nó đau nhức. Thấy nó lành và lên da non. Thấy nó lên sẹo. Thấy nó những ngày mùa hè, buổi trưa, thấy nó những ngày mùa đông, buổi tối, nhớ một đứa bạn cũ, nghịch ngợm nhưng có lẽ đáng yêu, ở một nơi xa.
Timmy, con thấy không, chính ta là người gây ra vết thương ấy thì ta không thể nhớ, ở đâu, hòn đá nào, hàng rào nhà ai, một buổi trưa nào.
(còn tiếp)
Nguyễn Đức Tùng
CÁC BÀI ĐÃ ĐĂNG CỦA TÁC GIẢ:
- BỐN MƯƠI NĂM THƠ VIỆT HẢI NGOẠI: ĐỖ QUYÊN
- BỐN MƯƠI NĂM THƠ VIỆT HẢI NGOẠI: NGUYỄN LƯƠNG VỴ
- thư mời và thư cám ơn
- Trang thơ Trần Mạnh Hảo
- Nguyễn Trọng Tạo – Tuổi hợi cầm tinh
- vài khía cạnh đặc thù của 20 năm văn học miền nam
- VIẾT VỀ NHÃ CA, TRẦN DẠ TỪ
- NẤU ĂN TRONG ĐÊM
- NHỮNG DI CỐT CUỐI CÙNG CỦA BOUDAREL ĐÃ VỀ ĐẾN BIỂN ĐÔNG
- VỈA HÈ VÀ DÒNG SÔNG
- VĂN HẢI NGOẠI SAU 1975 (233): ĐINH QUANG ANH THÁI – VỀ MỘT CHUYẾN ĐI NGA
- PHAN VŨ – PARIS VÀ HÀ NỘI
- THƠ TRẦN HOÀNG PHỐ
- THƠ DỊCH VỚI THANH TÂM TUYỀN
- MƯỜI SÁU BÀI BỐN CÂU – THƠ NGUYỄN HÀN CHUNG
- THƠ HOÀNG VŨ THUẬT
- BABEL 2020 HAY VIRUS BIẾN DỊ CỦA THẾ KỶ 21
- THƠ TRƯƠNG ĐĂNG DUNG
- TÔI KHÔNG THỞ ĐƯỢC
- THƠ LINH VĂN
- NHÀ VĂN THẠCH LAM: MẠNH HƠN CÁI CHẾT
- TƯỞNG NIỆM BA NĂM NGÀY MẤT LƯU HIỂU BA, 2017-2020
- Mười Năm Thơ Đến Từ Đâu: Ngô Tự Lập
- HOÀNG THỊ THU THỦY: MỘT BÀI THƠ HAY
- Võ Phiến: Cái Còn Lại
- HAIKU
- Nguyên Ngọc- Đồng Bằng
- Tùy Bút Nguyễn Đức Tùng: Cà Phê Vỉa Hè
- TÙY BÚT 1:TRONG BÓNG MÁT CỦA BỨC TƯỜNG
- Chạy Chậm
- Mười Năm Thơ Đến Từ Đâu: Nguyễn Trọng Tạo
- Truyện Ngắn Nguyễn Đặng Mừng
- Mười Năm Thơ Đến Từ Đâu: Văn Giá
- MARY OLIVER, BẠN BIẾT MÌNH CẦN PHẢI LÀM GÌ
- ĐỌC THƠ NAOMI SHIHAB NYE: LÒNG TỬ TẾ
- MAI VĂN PHẤN, CUỘC ĐỜI QUYẾN RŨ
- NGUYỄN TRỌNG TẠO, MỘT CÂY SI VỚI MỘT CÂY BỒ ĐỀ
- TRẦN DẠ TỪ, THUỞ LÀM THƠ YÊU EM
- TRẦN NHUẬN MINH, LỊCH SỬ VÀ SỐ PHẬN
- HOÀNG HƯNG, NGƯỜI VỀ
- HOÀNG TRẦN CƯƠNG, NGÔN NGỮ QUÊ HƯƠNG
- Vàng xưa đầy dấu chân
- TRƯỜNG NỮ TRUNG HỌC ĐỒNG KHÁNH
- NGƯỜI ĐÀN BÀ SỐNG TRONG CHIẾC GIÀY
- CĂN BẾP CỦA MẸ TÔI
- DU TỬ LÊ, MẸ VỀ BIỂN ĐÔNG
- BÀI THƠ TỰ DO
- BÀI THƠ ĐỒNG TÂM
- 101. THƠ TÌNH THỨ BẢY
- 101. THƠ TÌNH THỨ BẢY
- 103. THƠ TÌNH THỨ BẢY
- Ý TƯỞNG BAN MAI
- NGƯỜI ĐÀN BÀ SỐNG TRONG CHIẾC GIÀY
- MỘT NGƯỜI BẠN HONGKONG
- BỐN MƯƠI NĂM THƠ VIỆT HẢI NGOẠI