Khế Iêm sinh năm 1946 (khai sinh 1947) tại Lê Xá, Vụ Bản, Nam Định. Học Luật tại Sài Gòn. Sống tại Mỹ. Sáng lập và chủ biên Tạp chí Thơ tại California 1994-2004. Hiện nay anh chủ trương tờ báo giấy thơ tân hình thức Việt được nhiều người tìm đọc.
Tác phẩm: Hột huyết (kịch, Sàigòn 1972), Thanh xuân (Thơ, California 1992), Lời của quá khứ (Truyện, California 1996), Dấu quê (Thơ, California 1996), Tân hình thức, Tứ khúc và những tiểu luận khác (Tiểu luận, California 2003), đồng tác giả và chủ biên tập Thơ Kể, Poetry Narrates (Tan hinh thuc publishing, 2009).
*
Khế Iêm nổi tiếng như người khởi xướng và, đến nay vẫn tiếp tục, như cây viết lý luận chính yếu của phong trào thơ Tân hình thức Việt. Về sáng tác, anh cũng là một trong vài nhà thơ quan trọng nhất của phong trào này. Trước đó, thời kỳ cổ điển và thơ tự do, thơ Khế Iêm ít được biết tới hơn nhưng không phải là anh không có những bài thơ được yêu mến. Chúng phần nào là tiền đề để anh bước vào con đường thi pháp mới. Như một người sáng tác, anh có những thuận lợi của nhà thơ có kinh nghiệm lâu năm, viết nhiều thể thơ, đọc nhiều, nhưng vì thế anh cũng có những gánh nặng khác trên vai: toàn bộ lý luận về thơ Tân hình thức, sự triển khai và sự áp đặt của nó đối với một nhà lý thuyết.
Những người đọc kỹ thơ Khế Iêm trước đây sẽ ngạc nhiên thấy rằng trong thời kỳ đầu anh vốn không phải là người nặng về tự sự và mô tả, với khuynh hướng đi sâu vào chi tiết và khuynh hướng yêu thích tính chính xác vốn phổ biến trong các truyền thống phương Tây. Như vậy, có thể xem Tân hình thức là một bước ngoặt trước hết với thẩm mỹ của nhà thơ. Có lẽ nhiều người đã từng gặp những khúc quanh như thế, nhưng chỉ một số người trong số họ, những tài năng có lẽ, mới kịp đột ngột rẽ đường vào khúc quanh ấy. Thơ Khế Iêm đầy rẫy những chi tiết thời thơ ấu, thời mới lớn, ký ức chiến tranh, chiêm nghiệm lẽ đời và tuổi già. Những yếu tố chính trị trong thơ anh chỉ thấp thoáng hiện diện nhưng sẽ trở đi trở lại. Những đề tài được ưa thích của Khế Iêm như quan hệ giữa người và người, thân phận, quê hương, không phải là những đề tài khác thường. Vì vậy, khi trở thành chất liệu của thơ Tân hình thức, cố gắng cần thiết của nhà thơ trở nên rất lớn để có thể biến chúng thành các phương tiện hữu dụng.
Thơ Tân hình thức, như nhiều lần được anh và các nhà thơ đồng hành định nghĩa, bao gồm những đặc tính như: tính truyện, tính lập lại, ngôn ngữ đời thường, tính vắt dòng, vần điệu. Có lẽ cần thêm rằng tính chất vui chơi và tính chất huyền bí cũng tạo nên những phẩm chất cốt lõi khác. Là một phong trào nặng về hình thức nghệ thuật, cho đến nay thơ Tân hình thức nói chung, của nhiều tác giả, và thơ của riêng Khế Iêm, đang cho thấy những khả năng tiềm tàng và những giới hạn dễ thấy của nó. Đó là vì sao trong dư luận phê bình có hai khuynh hướng, khen và chê, đối với Tân hình thức.
Năm 2014, một hội thảo khoa học về thơ Tân hình thức được dự định, bởi tạp chí Sông Hương ở Huế và tổng biên tập Hồ Đăng Thanh Ngọc, cũng là một nhà thơ Tân hình thức, chứng tỏ sức lan tỏa của phong trào này ở hải ngoại và trong nước. Hội thảo không thực hiện được, nhưng đã trở thành, một cách đầy ấn tượng, việc ra mắt một tuyển tập song ngữ dày dặn, công phu, mỹ thuật, chứng tỏ sự hiện diện của cả hai khuynh hướng ủng hộ và nghi ngại này, và cả hai đều mạnh mẽ.
Xét thuần túy về mặt nghệ thuật, các phản hồi khen chê có thể được các nhà thơ đồng hành với Khế Iêm sử dụng để điều chỉnh. Gần đây một số nhà thơ đã có khuynh hướng mở rộng các ranh giới của nó, tiếp cận những đề tài xã hội và chính trị, mới, đi sâu vào các khuynh hướng tâm linh, làm phong phú thêm ưu điểm ngôn ngữ của Tân hình thức.
Nhà thơ Đỗ Quyên, một trong những người theo dõi khách quan và sát sao phong trào Tân hình thức, cũng như theo dõi nhiều vận động thơ ca khác, đã nhận xét như sau:
“Đây cũng là lần đầu tiên trong sự phát triển văn học Việt Nam, một trào lưu thi ca – có lý thuyết bài bản, có tranh luận sôi nổi, có thời gian thử thách, có ảnh hưởng dư luận và nhất là có thực hành sáng tác rộng khắp trong và ngoài lãnh thổ quốc gia – đã được cộng đồng văn học chấp nhận về học thuật. Trong môi trường lý luận, phê bình và sáng tác văn nghệ Việt Nam lâu nay chưa có tập quán trường/ phái/ nhóm, đây nên được xem là bước chuyển đổi lớn…
Một cách tương đối, nếu xem hành trình sáng tác theo 4 bậc thang – Cách mạng (Cải cách) thơ: cần văn hóa, thời đại mới, thông qua chủ nghĩa, triết thuyết mới; Cách tân (mở đường) thơ: cần thi pháp mới, tạo khuynh hướng mới; Đổi mới thơ: bằng bút pháp mới tạo lối viết mới; Sáng tạo thơ: qua phong cách mới với thủ pháp mới – thì Thơ Tân hình thức Việt ở bậc thang Cách tân.”
Phong trào Tân hình thức Hoa Kỳ có lẽ đã chọn được người đại diện xứng đáng của mình trong ngôn ngữ Việt, không những đại diện mà thậm chí còn nâng lên, ở một nhà thơ với sự xẻ đôi giữa một bên là khuynh hướng cách tân về phong cách và ngôn ngữ, một bên là khuynh hướng trữ tình và vần điệu cổ điển.
NĐT
TỰ CA
Mở mắt Nhấp nháy nghi, hồn nhiên
Rơi trên thềm, ruộng đồng chảy mật
Chưa bao giờ nước và đất thành bùn
Chưa bao giờ điêu linh là mộng
Ta khởi từ đời thật có
Chạy đi rồi về gió tất tưởi
Chiều xa chôn hờ thây ngoài non
Đợi nhau từng giờ bướm thổn thức
Dừng lại con quay quẻ may rủi
Dắt tay bước qua cầu nước mắt
Thở dài
Cười
Tiếng hùng hổ
Nhè nhẹ rừng lời buông bông lơn
Nhát cuốc
Cỏ, hẳn nhiên chết
Cho nhanh ngày mầm héo xơ xác
Vay trả ngàn kiếp muôn biến đổi
Ta ca thiêm thiếp quê mùa thơm.
XUÂN TÙ
Gửi TPK
Lửa mắt, hôn tóc sao
Chảy và khóc
Lời kinh mưa
Như trái tim kịch, lòng co quắp
Như bất ưng chiều run phiêu linh
Như chim bay qua rừng hát huyên náo
Ta, sâm thương nguồn gió đau đớn
Bên quán xưa men rượu còn chờ
Thây man di có tiếng hờn oán
Sông cuối sông về, hoa tinh mơ
Ngăn ngắt quanh ngực núi càn rỡ
Khuya liếp tranh hồn quê siêu sinh
Ta cắn răng cùng đá gầm rú
Trong nước trôi ngoài trăng lân tinh
Soi, bỗng nhiên dòng nỗi lam lũ
Đang cuốn đi từng cơn phiếm du
Thiêm thiếp hơi gặm miếng tình cũ
Bao phế hưng ta mùa xuân tù.
DẤU QUÊ
phà vào lũ mục
tử bằng đất nung
với tay nhón cái phôi
pha với khói
tí tách
con mắt góc xếch
mé trong thế giới hai mặt một lời
(ai ở ngoài lời)
vẽ lại hình dạng đã thành quen
thói
phẩy con đường làm đôi
không biết lối nào có dấu quê
cũ
CON MÈO ĐEN
Con mèo đen có linh hồn và chiếc
xương sườn của tôi, mỗi buổi sáng thức
dậy không bao giờ rửa mặt, mỗi buổi
sáng thức dậy không bao giờ đánh răng;
con mèo đen có đôi mắt bằng đất
sét, mở ra và nhắm lại, hay cứ
mở ra và không bao giờ nhắm lại,
trong lúc lên thang xuống thang, mang theo
linh hồn và chiếc xương sườn của tôi,
mà quên rằng, tôi đã sống những ngày
hôn ám biết bao, tự thuở nào và
tại sao thì tôi đành chôn kín, trong
cái túi đựng đầy những đoạn chú thích,
được lượm lặt từ rất nhiều mẩu chuyện,
để cấu thành câu chuyện về con mèo
đen, mang linh hồn và chiếc xương sườn
của tôi; dĩ nhiên, đó là con mèo
đen có đôi mắt bằng đất sét, chứ
không phải bất cứ đôi mắt nào khác;
mù đặc, trong lúc lên thang xuống thang.
NGƯỜI ĐÀN BÀ SAU 40 NĂM
Người đàn bà 40 tuổi trở
về sau 40 năm cuộc chiến
tàn nơi một đất nước xa lạ
xa lạ như đứa trẻ sinh ra
không biết mình là ai trong cuộc
đời 40 năm mập mờ ký
ức bà đi tìm bà hay bà
đi tìm ai ôi chao bà đi
tìm câu chuyện về người đàn bà
đã sinh ra bà và ném bà
vào một thế giới không phải của
bà nhưng bà chỉ gặp một Sơ
già từng cưu mang những đứa trẻ
mồ côi và cho họ một cuộc
đời khác khác với cuộc đời họ
đã sinh ra Sơ ngỡ ngàng Sơ
không nhận ra bà bà không nhận
ra Sơ đã 40 năm qua
rồi Sơ kể kể đi kể lại
những hoài niệm cất giấu sau cuộc
chiến tàn bà là đứa trẻ được
đưa tới trại trẻ mồ côi từ
bệnh viện bệnh viện nơi trú ẩn
của sự sống và cái chết cuộc
đời của người đàn bà đã sinh
ra bà và cứ thế huyễn hoặc
này vùi vào huyễn hoặc khác cuộc
đời này vùi vào cuộc đời khác
những dấu tích phôi pha đủ để
Sơ già già hơn qua năm tháng
nhưng vẫn chồng chất những mảnh đời
bất hạnh của những đứa trẻ mồ
côi rồi Sơ lại kể kể đi
kể lại như thể sợ mất đi
đứa con thất lạc nay đã về
nhà trong cuộc hành trình 40
năm sau cuộc chiến tàn bà trở
về nơi bà đã ra đi nay
bà lại ra đi đến nơi đã
trở về bà là ai là ai
là câu hỏi mãi đeo đẳng nơi
bà dù cho là có 40
năm sau nữa.
* Theo bản tin “Ngày về của đứa trẻ trong Chiến dịch Không vận Trẻ em 1975”, nguồn Khampha.vn, câu chuyện sơ tán của Julie Davis từ Sài Gòn tới Seattle, Mỹ, vào năm 1975.
TÂN HÌNH THỨC VÀ CÂU CHUYỆN KỂ
Khi tôi ngồi uống cà phê ngoài lề
đường và kể lại câu chuyện đã được
kể lại, từ nhiều đời mà đời nào
cũng giống đời nào, mà lời nào cũng
giống lời nào, về người đàn bà và
đàn con nheo nhóc (nơi góc phố được
gọi là chỗ chết, nơi góc phố được
gọi là chỗ sống), kẻ những đường kẻ
bằng than đen; gãy góc, xấu xí như
cái bóng trong tấm hình cũ, như dĩ
nhiên hôm nay ngày mai ngày mốt, như
thế thôi thì thế thôi, biết đâu chừng
nhưng người đàn bà và đàn con nheo
nhóc, vẫn kể lại câu chuyện đã được
kể lại, như người khác đã từng kể
lại, dù chẳng để lại gì ngoài câu
chuyện đã kể, bởi câu chuyện đang tự
kể lại, và không ai, ngay cả người
đàn bà và đàn con nheo nhóc, bước
ra ngoài câu chuyện đã được kể lại.
CÁC BÀI ĐÃ ĐĂNG CỦA TÁC GIẢ:
- Nguyễn Viện: Thơ đến từ đâu
- KHI CÒN BÉ TÔI ĐỌC SÁCH
- THẦY DẠY VĂN CỦA TÔI
- tùy bút nguyễn đức tùng 3: chạy chậm
- THƠ W. H. AUDEN: BẢO TÀNG MỸ THUẬT
- XẬP XÒE ÉN LIỆNG
- MAO Ở VŨ HÁN
- BỐN MƯƠI NĂM THƠ VIỆT HẢI NGOẠI: HÀ NGUYÊN DU
- Chúng Ta May Mắn Nhưng Chúng Ta Không Biết (Tuỳ Bút)
- TRĂNG MÀU MẬN CHÍN
- TRÔI VỀ NHẬT BẢN
- Nguyễn Trọng Tạo – Tuổi hợi cầm tinh