Lý Đợi: Thơ đến từ đâu

Nguyễn Đức Tùng thực hiện 

Nguyễn Đức Tùng: Xin cho xem bài thơ mới nhất của anh.

Lý Đợi: Tác phẩm thơ mới nhất của tôi được hoàn tất ý tưởng để thực hiện hôm ngày 8/9/2006, trong dự án Nghệ thuật công cộng 1m2 được phát xuất từ Huế, chủ dự án là hoạ sĩ Trương Thiện. Đây là dự án nhằm mở ra một không gian trưng bày ngoài trời, thích nghi với môi trường và công chúng. Dự án là bước đi đầu tiên trong việc tổ chức các sự kiện nghệ thuật công cộng trong tương lai với 2 tiêu chí: 1) Bất cứ không gian nào cũng có thể trở thành không gian nghệ thuật. 2) Bất cứ ý tưởng nào cũng có thể trở thành hiện thực.

Thường thì mỗi tuần, tôi làm một tác phẩm nhưng từ ngày 8/9 đến nay, vì phải bắt tay vào trả lời bài phỏng vấn to tát của anh, tôi gần như không làm được gì cả. Bài phỏng vấn đã làm tôi hư hỏng chăng?

Nguyễn Đức Tùng: Ý tưởng của tác phẩm này?

Lý Đợi, tác phẩm “Lời hứa của Doi Ly”, thực hiện từ lúc 11h17 sáng đến 11h18 (trong 1 phút) trưa ngày 14/9/2006 tại cầu vượt Quang Trung 1, đường Tô Ký, quận 12, Tp. HCM. Ảnh: Bùi Chát.

Lý Đợi: Với phần lớn các nhà thơ [tạm gọi là] đương đại ở vỉa hè Sài Gòn, tác phẩm là một chuỗi các thể nghiệm liên tục, ẩn chứa nhiều cách làm khác [mà cụ thể là khác với quan điểm của Hội Nhà văn, Ban Tư tưởng Văn hoá…] thì việc tìm một chỗ để trình diễn thơ thật không dễ. Theo chủ quan, tôi tự cho phép mình cũng nằm trong hệ lụy của những tác giả đó, nên thấy cần thiết phải trả lời. Hiện nay, tôi đang sống và sinh hoạt tại La Hán Phòng với diện tích 16m2, cùng Bùi Chát, có sự lui tới của Khúc Duy, tại Sài Gòn, có nhà vệ sinh riêng lớn hơn 1m2 một chút. Chẳng lẽ tôi phải trình diễn thơ trong ấy? Thì trình diễn cũng được, chẳng có gì quan trọng, nhưng theo yêu cầu của dự án thì không gian đó phải là nơi công cộng. Vậy thì tôi phải làm sao? Chắc tôi phải cướp lấy 1msát cột cờ, trụ đèn xanh đèn đỏ, ở một ngã ba hay ngã tư đường nào đó để trình diễn thơ trong một phút. Một phút thì không đủ cho một tác phẩm thơ, nhưng cũng đâu có sao, của chung mà… tham nhũng, móc ngoặc biết bao nhiêu cho vừa. Với lại cưỡng chiếm nhiều quá cũng không tránh khỏi nguy hiểm; với nhóm Mở Miệng thì những điều này không còn quá xa lạ.

Trong tác phẩm này tôi không thể cưỡng chiếm hay tước đoạt được bất kì một trụ đèn xanh đèn đỏ nào, bởi ở đó, lúc cao điểm đều có nhân viên công vụ (cách gọi cảnh sát giao thông một cách hoa mỹ) đang làm việc, gây cản trở thì sẽ bị phản kháng. Những vụ cựa quậy kiểu này thì đội đặc nhiệm 113 sẽ có mặt trong vòng 15 phút, rắc rối trăm bề, trong khi ý đồ của tác phẩm thì không phải vậy. Tôi đành nghĩ đến cầu vượt Quang Trung 1, được xem là giải pháp cho tình trạng giao thông vốn đần độn, bế tắc như thành phố Hồ Chí Minh có một chút sáng của tia hi vọng. Nó cũng giống tình trạng các nghệ sĩ Việt Nam, vốn amateur và bảo thủ, thì một số ít trong ấy cũng đang tìm cách vượt thoát ra khỏi tình trạng kẹt xe, khói bụi trong tư tưởng và sự tự do của “cầu vượt”, của đi ngang về tắt. Nơi đây cũng gần với công viên Phần mềm Quang Trung, nơi có thể là một trong số ít những tiếng nói nhỏ bé của trí tuệ trẻ Việt Nam với quá trình hội nhập WTO, vốn còn rất à ơi, bất cập và xa vời.

Nguyễn Đức Tùng: Anh giải thích như thế nào về một nhà thơ mặc áo quần giống y chang công chức trong tác phẩm của mình?

Lý Đợi: Nếu cho rằng nghệ sĩ là người đại diện cho tự do thì họ mặc quần áo kiểu gì mà chẳng được. Ngay cả khi không mặc cũng chẳng sao, anh đã xem bìa 1 tập thơ Ê, tao đâycủa Nguyễn Quốc Chánh chưa? Ở đó, anh ta tự cởi truồng đứng trước gương, cặc của anh bị máy hút bụi nuốt vào ống hút (giống tình trạng đang đụ với robot, đang thủ dâm, hoặc đang bị cưỡng dâm…), rồi anh ta chụp hình lại, xử lý một chút trên photoshop cho nhạt nhoà, cuối cùng thì thành bìa tập thơ.

Vấn đề tôi muốn nói qua tác phẩm của mình rằng: Hoặc là nhà thơ, nghệ sĩ đang bị công chức hoá, bị cưỡng dâm từ hình thức tự thân đến ý tưởng và cả tác phẩm. Hoặc các nhà thơ, nghệ sĩ bị tống ra đường giữa trưa nắng, như bọn điên khùng, muốn làm gì thì làm (tất nhiên chỉ trong 1 phút – gọi là ban phát 1 chút tự do ảo tưởng). Hoặc tất cả công chức, giới chức, và trí thức Việt Nam… đang bị tình trạng (hay đúng hơn, đang tự nguyện chấp nhận tình trạng) bịt miệng nhưng lại thích đọc thơ, thích phát ngôn. Thế mới ghê!

Nguyễn Đức Tùng:Trong hai tờ giấy anh cầm trên tay, có vẻ chăm chú đọc, có chữ nghĩa gì không?

Lý Đợi: Một phút thì đọc được cái mẹ gì. Tất cả những gì xuất hiện trong tác phẩm đều được tôi sử dụng trong những trường hợp bình thường khác; đây là trường hợp không bình thường – trình diễn thơ một phút. Tuy nhiên, tác phẩm thơ mà tôi muốn trình diễn thì vẫn có, đây là nguyên văn:

Lời hứa của Doi Ly

bấy giờ ta sẽ làm cho Môi Miệng chư dân nên tinh sạch
để tất cả đều kêu cầu danh Nhân quyền
và kề vai sát cánh phụng sự Đổi mới…

ngày ấy, các ngươi sẽ không còn phải hổ thẹn
vì mọi hành vi ngang trái chống lại Độc quyền
bấy giờ, ta sẽ đuổi cho khuất mắt các ngươi
những kẻ kiêu căng đắc thắng
những kẻ ôm mộng toàn trị
và các ngươi sẽ không còn nghênh ngang hay luồn cúi
trên xứ sở của những người mất tự do
ta sẽ cho sót lại giữa các ngươi những con dân nghèo hèn và bé nhỏ
để các ngươi khoe mẽ về Nhân quyền
về Toàn cầu hoá
về Bản sắc dân tộc
về các trò hù doạ trong y tế
và cả chuyện tù đày…

ta cũng sẽ cất khỏi các ngươi những tai hoạ
khiến các ngươi không còn phải ô nhục
ta cũng sẽ trừng phạt những kẻ đã hành hạ các ngươi
ta cũng sẽ tập hợp những ai đi lạc
ta cũng sẽ cho các ngươi được vinh danh
và ngợi khen ngay giữa các sắc dân trên cõi đất
ngày ta đổi vận mạng cho các ngươi
ngay trước mắt các ngươi – như là một lời hứa
lời hứa của Doi Ly…

lời hứa tiếp nối lời hứa
lời hứa của truyền thống
lời hứa của hiện nay…
các ngươi hãy cứ tiếp tục tin đến hết đời của mình – hơn sáu mươi năm cuộc đời
hãy tiếp tục tin và hãy tiếp tục nhớ rằng các ngươi đã được hứa
một lời hứa không đến từ Hư vô
mà đến từ Hiện thực, một hiện thực không bao giờ có thực
hiện thực không bờ bến…

tất cả các lý do ấy quy về:

(Nguồn: Xp 3, 9:20)

Nguyễn Đức Tùng: Bài thơ này thú vị lắm. Xin anh mô tả thêm một chút về dự án Nghệ thuật công cộng 1m2 tại Huế để người đọc có thể hình dung rõ hơn về tác phẩm của anh?

Lý Đợi: Tôi làm gì mà đủ thẩm quyền để mô tả. Chủ dự án này mô tả như sau: Dự án 1m2, bước một, lấy không gian và bối cảnh ở Huế (mang tính địa phương) và các địa điểm cụ thể được chọn trước, ví như ở Sài Gòn.

  • Dự án chọn 1m2 ở công viên Mùng 3 tháng 2, bên cạnh bờ nam sông Hương, làm tiêu điểm, bởi ở đó sẽ có nhiều nghệ sĩ tham gia nhất.
  • Dự án xác định những nghệ sĩ làm việc với dự án này có thể ở Huế hoặc không ở Huế.
  • Dự án xác định tiêu chí chọn lựa tác phẩm trong bước một là:
    1. Không giới hạn ý tưởng
    2. Không giới hạn chất liệu thể hiện
    3. Giới hạn không gian là 1m2
    4. Giới hạn thời gian là 1 ngày, 1 buổi, 1 tiếng hoặc 1 phút cho mỗi tác phẩm
    5. Giới hạn chủ đề: Tránh các vấn đề nhạy cảm.
  • Dự án xác định loại hình nghệ thuật trong dự án là Sắp đặt và Trình diễn.
  • Dự án xác định công chúng là những người ở Huế, hoặc không ở Huế, khách tham quan du lịch và khách vãng lai.
  • Dự án xác định trách nhiệm tự kiểm duyệt tác phẩm của mỗi tác giả.
  • Dự án cũng dự trù một vài phát sinh tất yếu.

Nguyễn Đức Tùng: Anh nghĩ ý nghĩa thực sự của dự án này là gì?

Lý Đợi: Với tôi thì dự án này có 2 ý nghĩa chính: Thứ nhất, đó là dịp để mình tư duy về một tác phẩm từ xa, Sài Gòn và Huế cách nhau hơn 1000km. Qua đây, mở ra khả năng liên kết của một cộng đồng nghệ thuật rộng rãi, không phân biệt. Thứ hai, đây là cái cớ thích hợp để tôi trả lời bài phỏng vấn của anh, chứ chẳng lẽ cứ trả lời khơi khơi, không căn cứ vào một điều gì cụ thể. Tôi hay tư duy theo sự kiện mà.

Đó là về phần tôi. Chứ dự án 1m2 có nhiều tham vọng về ý nghĩa như sau:

  • Dự án nhằm chiếm dụng, mượn một không gian công cộng trong một thời điểm nhất định, không gian này đã không tồn tại và được sử dụng cho mục đích nghệ thuật. Và vì đã không có một không gian nghệ thuật dành cho các hoạt động nghệ thuật “đương đại”.
  • Các không gian kiểu cũ cho trưng bày không đáp ứng các khả năng thích nghi của tác phẩm, tác giả [đương đại] liên lạc, liên kết và trao đổi với công chúng.
  • Phát huy các khả năng thể hiện, thể nghiệm tác phẩm một cách đơn giản hơn, không thông qua các vấn đề thường cản trở tiến trình thể hiện tác phẩm: kiểm duyệt, chọn lựa, tổ chức, thời điểm….
  • Phát huy khả năng tự kiểm duyệt tác phẩm của tác giả, liên hệ của tác phẩm với công chúng và trách nhiệm của tác giả với tác phẩm và công chúng.
  • Đánh giá công chúng ở một tầm mức cao hơn về cách công chúng tiếp cận nghệ thuật đương đại; tham gia vào tác phẩm, và cả tác động đến tác phẩm.
  • Liên kết với các không gian trưng bày kiểu cũ chứ không nhằm chống lại các không gian đó.
  • Hạn chế các tác phẩm trong 1m2 là khá nguy hiểm, vì dự án nhằm tránh một định dạng cụ thể với cơ chế cũ nhưng lại rơi vào một định dạng mới, ít nhất là về hình thức không gian. Nhưng ý nghĩa của 1m2 nằm ở chỗ: chúng ta thậm chí khó có thể có 1m2 để làm nghệ thuật “đương đại” mà không bị điều kiện, điều khiển bởi điều gì.

Nguyễn Đức Tùng: Tôi được biết anh còn nhận lời tham gia một triển lãm-không gian phá cách tại Hàn Quốc, có tên là Bước trong hoà bình (PACE ON THE PEACE). Anh có thể nói rõ về điều này? Và tác phẩm của anh đã làm?

Lý Đợi: Tôi đã nhận lời tham gia và đã gởi tác phẩm nhưng dự án dành cho các nghệ sĩ trẻ của Hàn Quốc và Việt Nam này chưa diễn ra. Theo dự kiến, nó sẽ diễn ra từ ngày 14 đến ngày 31 tháng 10 năm 2006, tại thành phố Anyang, với 3 hình thức thể hiện chính: tranh vẽ, video art, và mail art. Dự án này là cách để các nghệ sĩ trẻ nhìn lại [nhìn khác đi định kiến cũ] cuộc chiến Việt – Mỹ, mà trong đó có sự tham gia của lính đánh thuê Hàn Quốc, vốn nổi tiếng bạo tàn. Có thể tham khảo về dự án và triển lãm này tại: http://www.stonenwater.org/.

Thông tin mà tôi muốn chuyển đến người xem trong tác phẩm này là:

Tên tác phẩm mới: Chiến tranh các vì thơ
Tác giả mới: Lý Đợi
Tên tác phẩm gốc: Sứ giả Ichigo
Tác giả cũ: Tite Kubo

Tập truyện tranh mới này dùng thủ thuật cắt dán, tẩy xoá và thay đổi nội dung một phần nhỏ trong tập 7 của bộ truyện tranh Sứ giả Ichigo, có tên tập là Lưỡi gươm công lý.

Tại Việt Nam, trong khoảng hơn 10 năm qua nổi lên một làn sóng: truyện tranh Nhật Bản và phim truyền hình Hàn Quốc được du nhập ồ ạt. Mà nói theo ngôn ngữ của các nhà xã hội học thì để chống lại hay hoá giải cuộc chiến này cũng khá mệt mỏi, khốc liệt. Kinh tế và công nghệ giải trí đang “xâm lược” vào Việt Nam. Vậy là với mỗi thế hệ, tuổi trẻ Việt Nam lại bị bắt buộc phải đối diện với một cuộc chiến kiểu mới.

Tập truyện mới của tôi có dùng để đọc được không? Chắc là không! Dù nó đầy đủ hình và chữ. Nhưng nó vẫn có tham vọng kể câu chuyện về một trong các nhà thơ của Việt Nam được mời sang Hàn Quốc để trình diễn thơ. Theo dự định, nhà thơ này sẽ đọc những bài thơ bằng tiếng Việt của mình ở trong một hồ cá lớn, mọi người đứng ngoài xem. Kế tiếp, anh ta sẽ làm thơ [theo kiểu cắt dán] bằng tiếng Hàn, dù anh ta không biết một chữ Hàn nào hết, rồi dán những bài thơ này lên tường, lên đá.

Tên mới của tập truyện này lấy cảm hứng từ tên một bộ phim đang rất ăn khách hiện nay, Stars War. Lấy tên to tát như thế là để lừa người đọc vào một chủ đề nghe rất đại tự sự. Càng đại tự sự hơn khi bạn bị cách ngăn bởi ngôn ngữ và có ý tò mò. Nhưng nếu đọc được tiếng Việt, bạn sẽ thấy rằng tập truyện này chẳng có ý nghĩa gì cả, thậm chí rất nhảm nhí. Như kiểu các nghệ sĩ hay nói: Cuộc chiến này vô nghĩa; chiến tranh là nhảm nhí.

Vậy thì tôi làm tập truyện để làm gì? Gợi ý một thao tác dễ cho những ai muốn làm khó nhưng không đủ khả năng. Nghệ thuật dễ cho những người bất tài hoặc cho những người có tài làm dễ. Ví dụ như khả năng hạn chế của tôi là không vẽ được truyện tranh, vậy thì, tôi lấy một truyện tranh có sẵn, tẩy xoá một ít nội dung cũ và viết nội dung mới của mình vào. Cách làm này cũng có thể tạo ra một cuộc chiến: cuộc chiến về bản quyền! Vậy là tôi đã có được chiến tranh theo kiểu được chủ động tạo ra.

Lý Đợi, Chiến tranh các vì thơ, Nxb Giấy Vụn, 8/2006

Trong một không khí mà nhiều người tin rằng Việt Nam vẫn còn mang âm hưởng của chiến tranh, bằng một việc làm dễ, ai làm cũng được, tôi cho đây là cách nhìn của bản thân về chiến tranh. Chiến tranh kiểu mới, chiến tranh của một người trưởng thành sau năm 2000 tại Việt Nam.

Nguyễn Đức Tùng: Theo anh, thơ đến từ đâu?

Lý Đợi: Làm sao tôi biết được! Bởi nếu nhìn theo quan điểm sẵn có trong cộng đồng văn học, văn hoá và tư tưởng tại Việt Nam thì tôi là người hoàn toàn không có đủ thẩm quyền đề trả lời. Nếu nhìn theo quan điểm ấy thì tôi không làm thơ.

Còn hiện nay, thơ đến từ đâu ư?

Nhiều người nói rằng đa phần (đến hơn 90%), thơ không đến từ hội viên (hay chuẩn bị là hội viên) của các hội văn học, từ trung ương xuống địa phương, (cả nước có khoảng 10 ngàn người). Những người khác thì nói rằng, thơ không đến từ các tập thơ được xuất bản chính quy, trong 6 năm qua (kể từ năm 2000 – từng dự đoán là cột mốc của tận thế), do mừng thoát chết, mỗi năm có khoảng 1.200 tập thơ được in ra, vị chi mỗi ngày khoảng 3 tập. Và cũng có khoảng 1.100 tập [nói khiêm nhường] trong ấy là đáng vứt đi. Còn những tác giả đơn lẻ khác, được xem là có cách tân, đổi mới thơ [và thường thì tác phẩm không được xuất bản chính quy] thì bị xem là bọn lai căng, dậm cứt phương Tây, phản động, đồi trụy… không đáng lưu ý.

Thơ, cũng có thể nói chắc chắn rằng, không đến từ hơn 10 triệu công an, quân đội, công chức, người ăn lương nhà nước. Đội ngũ này cũng có người làm văn học, nhưng đa phần thì không hoặc tưởng rằng mình có am hiểu về văn học, vậy là đủ rồi. Với đội ngũ này, mỗi dịp quốc khánh, lễ lạt hay tết nhứt…, mỗi người được thưởng khoảng 100 ngàn đồng [thường thì cao hơn nhiều lần], thì lấy 10 triệu nhân cho 100 ngàn lần thì số tiền mà nhân dân phải gánh, nhà nước lấy từ thuế chi ra cũng đủ là một bài thơ hoành tráng đến dễ sợ rồi. Vậy nhưng hơn 10 triệu người vẫn đòi và vẫn được tăng lương mỗi quý, mỗi năm. Với gánh nặng này, người dân có còn thời gian để làm thơ nữa chăng?

Thơ, cũng rõ rồi, không đến từ hơn 24 triệu học sinh phổ thông, và gần 6 triệu người khác đang phải đi học bổ túc, trung cấp, cao đẳng, đại học, cao học, tiến sĩ, tu nghiệp… và tại chức. Toàn thể cộng đồng người Việt trên thế giới có khoảng 90 triệu người [nói quá một chút] thì có đến 1/3 là người “cắp sách đến trường”, đông hơn bất kỳ một tôn giáo, tổ chức hay đảng phái nào của cộng đồng này. Mà giáo dục trong nước thì biết rồi, bị nhồi sọ triệt để, những người đi học còn tâm trí đâu mà làm thơ, dù cũng có nhiều “tác phẩm” được sản xuất ra từ lực lượng này.

Còn hiện nay, thơ đến từ đâu ư? Có lẽ đến từ hơn 5 triệu người bị tàn tật [tôi xin lỗi khi phải nói điều này], vì có vẻ như họ có đủ thời gian để suy nghĩ, và tìm cảm hứng. Hay có lẽ đến từ một vài người điên bị xã hội, bị định chế, bị pháp chế… cho lạc rơ. Nhưng ai biết được, mỗi người sẽ có một cách lý giải, một hướng giải quyết – anh nên hỏi thêm những người khác vậy.

Nguyễn Đức Tùng: Vậy thì điều gì trong sinh hoạt thơ và văn học nghệ thuật (Việt Nam) hiện nay làm anh hứng khởi và hài lòng nhất?

Lý Đợi: Đó là sự vong hoá gần như toàn bộ; đó là nguy cơ đổ sụp về văn học, văn hoá, thẩm mỹ và tư tưởng… của người Việt. Điều này có chịu ảnh hưởng ít nhiều của thể chế, của cục diện thời đại, của sức ép từ bên ngoài, nhưng lý do dễ thuyết phục nhất chính là ở tự thân mỗi người. Cách đây vài hôm, tôi thấy khoảng hơn 100 phụ nữ Bến Tre biểu tình đả đảo chủ tịch tỉnh, họ đi trên đường một chiều Nguyễn Đình Chiểu. Cuộc biểu tình này kéo dài nhiều tuần, kinh qua nhiều địa điểm trọng yếu, có công an chìm đi theo; khi họ đã đi qua khỏi một cơ quan hữu trách nào đó thì nơi ấy dựng lên các tấm biển đỏ chữ vàng kiểu: Cấm tụ tập, buôn bán, quay phim chụp hình… Mọi việc đã không được giải quyết, người ta chỉ làm lơ như thể bị câm điếc, mù loà vậy. Trong khoảng 5 năm qua, thỉnh thoảng cũng có những cuộc biểu tình yếu ớt như thế và các tấm biển đã liên tục được dựng lên sau khi họ đi qua. Đấu tranh đòi công lý, sự dũng cảm đòi tự do, dân chủ, đòi quyền được sống theo pháp luật… đã bị thui chột, đã bị vong hoá sâu sắc trong người Việt. Người Việt bây giờ không chỉ nhiều thói hư, tật xấu mà còn rất hèn nhát.

Tôi hứng khởi và hài lòng vì cũng mong muốn mọi việc sẽ trở về với số không, vì biết đâu như vậy lại có thể xây dựng lại. Tuy nhiên, tôi cũng biết đây là một ảo tưởng về một viễn cảnh trong tương lai, chắc không thể gần.

Nguyễn Đức Tùng: Anh có mong muốn gì vào một thể chế chính trị mới hay không?

Lý Đợi: Đó là một ước mơ không tưởng, bởi đa phần các cá nhân trong cộng đồng ấy đã không còn ước mơ và sự đề kháng nữa rồi. Sự hèn yếu và sự ảo tưởng đã giết chết họ. Với những cá nhân như người Việt hiện nay [tất nhiên có cả tôi], thể chế chính trị không còn quan trọng nữa, với sức cạnh tranh – đấu tranh yếu ớt, cấu trúc xã hội thì vừa cồng kềnh, vừa lỏng lẻo, thể chế nào cũng giết chết họ thôi.

Nguyễn Đức Tùng: Đó là lời nói của một người có tâm huyết. Nhưng anh có bi quan quá chăng?

Lý Đợi: Nếu tư duy nước đôi [dạng háng ra, vừa đứng trong vừa đứng ngoài] thì tôi sẽ không bao giờ bi quan, vì thực ra, trong hơn sáu chục năm qua, bối cảnh chính trị và đời sống Việt Nam thực-hư, được-mất thế nào, rất khó phân định. Bởi nếu nhìn từ góc độ nào, sờ từ lát cắt nào thì sẽ thấy con voi thế ấy. Còn người dân thì có vẻ như sau cơn bão chính trị và chiến sự, (nhất là sau 1975), họ đã quá mỏi mệt, không còn thiết bất cứ điều gì, họ chỉ muốn nghỉ ngơi cho lại sức, cho vơi đi mất mát xưa. Tôi nói họ không còn ước mơ và sức đề kháng là nói từ những người dân đen, tận cùng xã hội, cực kỳ thấp cổ bé hỏng, có kêu cũng không thấu, có la cũng không ai nghe. Tôi đang phát ngôn ở vị thế của chính những người dưới đáy cùng ấy, trong tận cùng nỗi đau, sự mất mát, người ta xổ toẹt ra nỗi bi quan tột độ – bằng cách thờ ơ và im lặng. Tôi có cảm giác như sự im lặng sẽ vĩnh hằng.

Còn nếu muốn nói khác đi, nói về những điều tốt đẹp, những dự phóng từ nội lực trong nước, những cựa quậy từ thế lực bên ngoài, những biến cải, đổi mới – thì ai cũng có thể nói được. Xấu che, tốt khoe mà. Tính tôi không muốn nói về những điều ấy, và có nói cũng không được. Tôi cứ xem như mọi việc đã đổ vỡ hoàn toàn, đưa tất cả về số không, từ đó dễ tư duy hơn. Là một người bên lề, tôi không có cơ hội để vào trong các khu vực tranh tối tranh sáng của “nội các”, không có thẩm quyền để phán xét-phân tích-thẩm định và phát ngôn về các chính sách vĩ mô. Cách hay nhất là tôi không công nhận nó, giả định nó không có để xem mình nghĩ được điều gì, làm được điều gì trên sự bề bộn hay trống trơn ấy. Tôi đủ thẩm quyền để tư duy từ vi mô.

Tuy nhiên, nói thì nói như vậy, nhưng tôi quá bất lực và nhỏ bé. Kêu lên vài tiếng cho vui vậy thôi. Tiếng kêu, có khi, cũng chỉ như sự câm nín.

Nguyễn Đức Tùng: Còn điều gì làm anh thất vọng nhất?

Lý Đợi: Với sự “hứng khởi” và “hài lòng” như trên, tôi đã không còn được phép để thất vọng nữa.

Tuy nhiên, vừa rồi, tôi cũng có một chuyện “vui”, đó là câu chuỵên quanh Dự án người đọc. Ngày 28/8/2006 tôi gởi e-mail dự án đến những người đã đọc tập thơ Chữ của Nguyễn Hoàng Tranh [vì anh ta vừa gởi từ Úc về, bởi vậy đưa tập thơ đó vào dự án cho tiện, chứ không phải vì muốn lăng-xê hay nịnh bợ gì] để hỏi một câu duy nhất: “Cảm giác, quan điểm, hay cách nhìn của anh/chị về tập thơ này như thế nào?” Với yêu cầu: “Nếu thấy vui lòng và thuận tiện, mong quý anh/ chị hồi âm e-mail trước ngày 5 tháng 9 năm 2006. Ý kiến trả lời không nhất thiết ngắn dài, khen hay chê; thậm chí cả lý do tại sao không trả lời; mỗi ý kiến sẽ được bảo lưu và đứng độc lập trong bài phỏng vấn nhiều người, xếp theo thứ tự A, B, C…, dự kiến công bố trên Tiền Vệ.” “Thực hiện bài phỏng vấn này để làm gì? Mở ra một dự án, mà qua đó, sẽ lấy ý kiến của chính người đã đọc để nhìn lại những tác phẩm đã công bố trong khoảng 2-3 năm qua. Tất nhiên, theo quan điểm chủ quan là ‘có vấn đề với chính người đọc’. Vì là phỏng vấn và là dự án của người đọc, nên chính tác giả và ban chủ trương Tiền Vệ, nếu đã có đọc, thì hoàn toàn có thể tham gia trả lời.”

Kết quả thì không có ai thấy vui lòng và thuận tiện cả, chỉ có một người duy nhất [Hoàng Ngọc-Tuấn] là có e-mail hồi âm khích lệ, nói rằng: dự án này rất tốt, nên tiến hành; nhưng anh cũng không có ý kiến về tập thơ. Dự án này bị hoàn toàn toàn sụp đổ trong vòng 15 ngày (tính đến ngày 20/9/2006), tôi đành phải “ngậm ngùi” gác lại những tác phẩm của Trần Tiến Dũng, Nguyễn Quốc Chánh, Phan Bá Thọ, Vương Văn Quang, Bùi Chát, Khúc Duy,… và nhiều người khác nữa

Nguyễn Đức Tùng: Anh có nghĩ là mình đã chọn tập thơ của Nguyễn Hoàng Tranh là không đúng, biết đâu mọi người thấy nó không xứng đáng để trả lời?

Lý Đợi: Không. Tôi nghĩ mọi người sợ hệ lụy [cả tốt lẫn xấu] khi trả lời về việc đọc của mình. Ngay cả Nguyễn Hoàng Tranh, vừa là chủ nhân, vừa là người đọc đầu tiên của tập thơ, còn không trả lời, thì làm sao mong ước sự đọc và hồi âm của người khác. Tôi chỉ muốn khảo sát vậy thôi, kết quả thế nào phản ánh cục diện thế ấy. Tuy nhiên, theo tôi, đây là tín hiệu vui, để thấy rằng chúng ta không có việc gì phải trông chờ, phải quá ảo tưởng vào người đọc và vào cả chính chúng ta – người đọc của chính tác phẩm của mình. Đọc và im lặng, nếu có lợi thì chỉ cho chính người đọc; đọc và lên tiếng thì mới có ảnh hưởng đến cục diện chung. Lý do của sự không vui lòng và không thuận tiện này, tôi nghĩ tự thân mỗi người đều có thể trả lời được!

Nguyễn Đức Tùng: Đúng là chúng ta cũng không nên quá ảo tưởng vào người đọc, trong trường hợp này cũng là những nhà thơ, như anh nói. Nhưng ngược lại, tôi nghĩ, trách nhiệm trước hết thuộc về các tác giả. Vì không đọc tập thơ của Nguyễn Hoàng Tranh nên dĩ nhiên tôi không thể có ý kiến gì về tập thơ này. Anh có đồng ý rằng nền thơ Việt Nam hiện nay nói chung chưa chinh phục được người đọc? Các nhà thơ chúng ta bất tài hay vì họ đi quá xa trước đám đông?

Lý Đợi: Tôi thích câu hỏi này của anh: “Các nhà thơ chúng ta bất tài hay vì họ đi quá xa trước đám đông?” Tôi cũng muốn hỏi ngược lại anh và độc giả: “Các độc giả chúng ta bất tài hay vì họ đứng quá xa trước đám nhà thơ?”

Trả lời hai ý này, tôi thấy gần đây Inrasara có viết bài “Cách mạng thơ” và “Khủng hoảng người đọc”. Chúng ta có thể đọc lại bài trên Tiền Vệ.

Theo tôi thì, mối quan hệ giữa nhà thơ – tác phẩm – và người đọc [trên toàn thế giới, chẳng riêng gì Việt Nam] không còn giống như trước. Cho nên những hệ quả mà nó mang lại cũng sẽ khác trước. Còn lý do tại sao ư? Tôi nghĩ riêng ý này cũng đủ để chúng ta làm một nghiên cứu khoa học trong nhiều năm, và viết một báo cáo hàng trăm trang. Khuôn khổ một bài phỏng vấn, không thể nào chuyển tải được. Cách hay nhất, khi nào đó thuận tiện, anh lại làm một loạt phỏng vấn nữa, lấy cây hỏi này làm chủ đề chính, các tác giả khác sẽ cùng chúng ta trả lời.

Nguyễn Đức Tùng: Riêng anh, anh thấy về tập thơ này như thế nào?

Lý Đợi: Chữ của Nguyễn Hoàng Tranh tạo một cảm giác về sự bình đẳng của các chữ. Không chữ nào nổi trội, không chữ nào “đắt” theo thẩm mỹ và quan điểm trước đây. Trong ghi chú thứ 9 của “Lời nói đầu”, Nguyễn Hoàng Tranh viết: “Không chữ nào cao thượng hơn chữ nào. Không chữ nào thấp hèn hơn chữ nào. Không chữ nào thánh thiện hơn chữ nào. Không chữ nào dâm uế hơn chữ nào. Không chữ nào sạch sẽ hơn chữ nào. Không chữ nào nhơ bẩn hơn chữ nào. Không chữ nào đáng yêu hơn chữ nào. Không chữ nào đáng ghét hơn chữ nào. Tất cả những ý niệm cao thượng, thấp hèn, thánh thiện, dâm uế, sạch sẽ, nhơ bẩn… đều nằm trong con mắt và tâm thức của kẻ đối diện với chữ.” Đáng lẽ Nguyễn Hoàng Tranh phải viết thêm: Không chữ nào khó hơn chữ nào. Không chữ nào dễ hơn chữ nào… Như thế sẽ đầy đủ và chặt ý hơn.

Trong tác phẩm này, tác giả sử dụng một tiết tấu/nhịp điệu đều đều, nhằm tạo sự nhàm chán cho độc giả khi tiếp cận “chữ”. Tuy tác phẩm là tập hợp những bài thơ đã đăng trên Tiền Vệ nhưng phải được xem xét nó như là một dự án tập kết lại, nhằm triển khai ý niệm và ý tưởng mà tác giả đã đặt ra từ trước. Hướng đến một chỉnh thể hoàn chỉnh [tuy điều này thường rất khó], tác giả không cho phép chữ nào trội hơn chữ nào, vì thế không có câu nào, bài nào trội hơn – cảm giác về sự bình đẳng giữa các chữ, các câu, cái bài được tôn trọng. Theo tôi nghĩ đây là ý đồ của tác giả, còn nếu ai đó [kể cả tác giả] nghĩ khác đi, thì cách nhìn cũng khác đi.

Nguyễn Đức Tùng: Xin lỗi anh, nhưng đọc xong đoạn văn của anh, tôi vẫn chưa thật sự hiểu được là anh thích hay không thích tập thơ này?

Lý Đợi: Vấn đề không phải là thích hay không. Nếu chỉ đơn thuần thích hay không thích, thì tôi cũng sẽ giống như những độc giả bình thường khác, nghĩa là đọc một tác phẩm giống như ăn món ăn, mua một vật dụng, phụ thuộc rất nhiều vào cảm hứng, khẩu vị. Tôi thì nhìn các tập thơ, các tác phẩm của người khác như một ván cờ, một mật mã dẫn vào kho báu, giải được nó mình thắng, không giải được thì thua, nhiều lúc cũng phải chịu hoà.

Có thể nói rõ hơn, tôi chẳng có lý do gì để thích hay không thích tập thơ của Nguyễn Hoàng Tranh, hay bất kỳ một tác phẩm nào khác, giống như một người nấu bếp, tôi không ưu tiên việc ăn và vui thú với món của người khác nấu mà phải ưu tiên cho việc tìm hiểu, phân tích nó để nấu món cho riêng mình, rồi cho cả người khác.

Nói kiểu Nguyễn Trãi, “tiên chi ưu, hậu chi lạc” (lo trước, vui sau); từ lâu rồi, với tôi, đọc là một trách nhiệm, một cực hình [vì không có gì đọc mệt như thế], nhưng cứ phải đọc. Không đọc nghĩa là chấp nhận sự lạc rơ.

Nguyễn Đức Tùng: Tôi hiểu khái niệm các chữ bình đẳng. Nhưng trong thơ, một chữ chỉ có thể được hiểu trong mối quan hệ của nó với các chữ khác. Như vậy nói cho cùng, trong câu thơ, chữ có thể nào còn bình đẳng được chăng? “Mai sau dù có bao giờ” và “Mai sau dù có khi nào” hoặc “Bao giờ dù có mai sau”, hay “Lời hứa của Doi Ly” và “Lời hứa của Lý Đợi”… “Bao giờ” và “khi nào”, “Doi Ly” và “Lý Đợi” có thể nào bình đẳng được không?

Lý Đợi: Tự câu hỏi của anh đã là một câu trả lời đầy đủ rồi. Ý niệm về sự bình đẳng ở đây là có lúc mình phải dùng “Doi Ly”, và có lúc thì phải dùng “Lý Đợi”, hoặc có khi chỉ dùng mỗi “Doi Ly”. Nhưng không phải vì thế mà “Doi Ly” quan trọng (trong nghĩa phái sinh rộng nhất của từ này) hơn “Lý Đợi”. Sự “bình đẳng” ở đây, tôi nghĩ, nên được hiểu như là sự tương quan, tương hỗ và độc lập. Y như câu chuyện về Robinson, người ta hay nói anh chàng này một mình ở trên đảo hoang trong thời gian dài, như vậy là anh ta không có tương quan, tương hỗ và hoàn toàn độc lập. Lầm! Vì nếu không có sự tương quan với đất liền, với câu chuyện được kể về anh ta, sự tương hỗ với các thói quen và thông tin của con người thì anh ta hoàn toàn độc lập và đồng nghĩa với hư vô. Không thể biết để nhắc đến. Vì anh ta vừa độc lập, vừa mất độc lập nên chúng ta mới có thể nhận ra anh ta, nghĩ về hay nói về anh ta. Với các con chữ cũng thế, nó vừa độc lập, nó vừa lệ thuộc (nói như anh là quan hệ) vào các con chữ khác, nên nó mới được và cần được bình đẳng. Ví dụ: Trong suy nghĩ của nhiều người thì “âm đạo” có vẻ bình đẳng hơn “lồn” vì nó được tự do sử dụng nhiều hơn, kiểu như nói “đi khám phụ khoa” thay vì nói “đi khám lồn”. Và vì cái thói [thoái] quen này, nên trong nhiều trường hợp cần sử dụng từ “lồn”, thì lại viết tắt là “l.”, hay thay bằng “âm đạo”. Như vậy là không bình đẳng.

Ca dao, dân ca mà ông bà ta [những người vốn bình dân] hay sử dụng có vẻ bình đẳng hơn. Tôi ví dụ vài câu tương đối thanh nhã để độc giả giải trí, nhằm trả ơn vì nếu lỡ phải đọc bài phỏng vấn nhì nhằng này:

Chồng bước chân chưa khỏi làng
Lồn đà mấp máy như mang cá mè.

*

Lồn là miếng thịt có lông
Có mùi thum thủm nhưng không có dòi.

*

Sáng trăng sáng rọi vô buồng
Thấy cô nằm truồng lồn trắng phau phau.

*

Lồm xồm hai mép những lông,
Ở giữa có lỗ, đàn ông chui vào
Chui vào rồi lại chui ra,
Năm thì mười hoạ đàn bà mới chui.
(Câu đố về cái gì)

Nguyễn Đức Tùng: Làm thơ thời nay có vẻ phụ thuộc nhiều vào ý thức chọn lựa, chứ không phải cảm xúc, cảm hứng.Ý thức công dân của nhà thơ có phải là một vấn đề của tác phẩm văn học (và thơ) không?

Lý Đợi: Ý thức công dân là một khái niệm rất xa xỉ tại Việt Nam hiện nay. Bởi thực tế, khái niệm này đang bị xuyên tạc và không được nhìn nhận, hay tôn trọng đúng mực. Một xã hội không có từng cá thể công dân [theo nghĩa được hưởng mọi công minh, công bằng và được tôn trọng trước pháp luật], mà chỉ có giới lãnh đạo, cầm quyền và người dân bị cầm quyền thì làm sao nói tới ý thức của công dân.

Nhưng nếu giả sử phải mở miệng để nói về ý thức của công dân, thì nó không chỉ là một vấn đề của văn học, mà còn là vấn đề của tất cả các vấn đề. Anh thử đơn cử một vấn đề nào không liên quan thử xem, lúc ấy chúng ta sẽ bàn lại; còn vấn đề nào cũng có liên quan, mà liên quan một cách thiết yếu, cận kề thì làm sao mà luận bàn hết cho được.

Nguyễn Đức Tùng: Nói thế, theo anh thì trong văn học Việt Nam hiện nay, điều gì là quan trọng nhất?

Lý Đợi: Đây cũng lại là một câu hỏi khó bởi vì nó rất dễ gây tranh chấp một cách triệt để, sâu sắc. Tôi xin nói lại một ý cũ, mà có lần đã phát biểu: Điều quan trọng nhất không phải là hay-dở, tốt-xấu, đúng-sai, mới-cũ… mà là thật-giả. Một nền văn học mà thật-giả không được phân biệt, không được định vị, chưa nói bị cái giả cầm trịch [như văn học Việt Nam hiện nay] thì đâu còn gì đáng phải tranh luận, suy xét.

Sự ngụy tạo đang bào mòn tài năng, nhân cách và nhiệt huyết những người cầm bút viết tiếng Việt.

Nguyễn Đức Tùng: Để rõ ý hơn và cũng là một ví dụ minh chứng. Anh thử trình bày cách đọc của mình về một bài thơ?

Lý Đợi: Nằm trong mạch suy nghĩ, và cũng đang nằm trong “mối quan hệ” của công việc hỏi và trả lời phỏng vấn, tôi chọn ngay một bài thơ của chính anh [Nguyễn Đức Tùng], vừa in trên Tiền Vệ:

Một con đường ở Phnom Penh

Tháng 9 năm 2006 tôi ra bưu điện nhận một thùng quà lớn
Của người anh bà con thất lạc đã lâu
Từ Phnom Penh
Khi đọc địa chỉ trên gói hàng
4314 Mao Tse Tung Boulevard

Một điều gì đó chạy xuyên qua
Mắt tôi
Trên võng mạc
Nó đảo ngược
Rồi xuyên qua óc tôi

Làm óc tôi vọt ra

Không còn gì phải phàn nàn về thơ quá khó hiểu hay là thơ quá dễ hiểu nữa. Một ý niệm thẳng, căng, mạch lạc, trực tiếp và gây hiệu quả về cảm thụ tức thời. Một bài thơ về sự sụp đổ trong nhận thức, suy tưởng và tư tưởng. Nói như các nhà phê bình Mác-xít, nó rất rõ ràng về quan điểm chính trị. Tôi cho rằng đây là một trong số rất ít những bài thơ thành công của Nguyễn Đức Tùng. Gặp những bài thơ như thế này, người ta sẽ rất ít khi còn băn khoăn về cách đọc; dù để đọc và giải mã hiệu ứng về ý niệm của nó cũng là cả một vấn đề.

Tuy nhiên, về ý niệm, tác phẩm thơ đơn giản hay phức tạp, nông hay sâu, rộng hay hẹp, ngắn hay dài… đều tạo ra một chiều kích về nhận thức.

Nguyễn Đức Tùng: Cảm ơn anh. Tập thể những người làm thơ Việt Nam hiện nay sinh hoạt với nhau ra sao?

Lý Đợi: Tôi cho rằng hiện nay không có một tập thể thực sự như thế. Bởi khi nói đến tập thể nghĩa là chúng ta nói đến một sự định hướng và mối tương liên quyền lợi – nghĩa vụ chung. Là một tác giả ở ngoại vi, tôi không có đủ cơ sở để nhìn nhận các tác giả chính lưu – trong hoạt động của họ, ở trong hội. Anh nên phỏng vấn một vài người có thẩm quyền phát ngôn trong giới chính lưu [ví dụ như bài của Thanh Thảo vừa rồi], để xem họ trả lời ra sao. Còn các tác giả bên ngoài, tác giả ngoại lưu, vỉa hè…, tôi thấy mỗi người mỗi hướng, ai làm việc nấy, nhiều khi cũng giẫm chân vào nhau.

Nguyễn Đức Tùng: Nhóm Mở Miệng của anh thì thế nào?

Lý Đợi: Chúng tôi có may mắn là số lượng người không nhiều, cùng chung điểm xuất phát, và luôn tôn trọng kế hoạch chung, thường được đề ra trước cả năm, cứ thế thực hiện. Về đường lối và định hướng lâu dài, chúng tôi cũng luôn xác định được mình phải làm gì trong 1 hay 5 năm tới, có những kế hoạch được đề ra cho năm 2008 thì không có lý do gì phải thực hiện trong năm nay, dù cho năm nay chúng tôi chỉ làm những kế hoạch nho nhỏ, không có nhiều tác động. Tuy nhiên, kế hoạch cụ thể ra sao thì tôi nghĩ nên cần một dịp khác, vả lại, cũng cần phải thương lượng trong nội bộ xem có được phép trả lời hay không.

Nguyễn Đức Tùng: Xã hội Việt Nam đang đặt ra những vấn đề cấp thiết, ở cả trong nước lẫn hải ngoại, như vấn đề dân chủ, vấn đề tham nhũng, giáo dục xuống cấp, đạo lý suy đồi, các tệ nạn xã hội, sự mất dần tiếng Việt của thanh niên ở hải ngoại v.v… Trong khi các nhà thơ Việt Nam có khuynh hướng chọn con đường văn học thuần túy và ít đụng chạm đến các vấn đề chính trị xã hội nói trên. Theo anh, thì tại sao? Điều này tốt hay xấu?

Lý Đợi: Nói đa phần các nhà thơ thì đúng hơn, bởi đa phần họ sợ các hệ lụy về đời sống và chính trị. Kinh nghiệm tại Việt Nam cho thấy cơm áo gạo tiền và các tệ nạn về chính trị đã đẩy nhiều nhà thơ, trí thức… đến sự bần cùng hoá. Nhưng tại Việt Nam, cũng như nhiều nước khác, điều gì cũng bị chính trị hoá, ngay cả khi im lặng. Cho nên im lặng hay mở miệng, cũng đồng nghĩa với ngu, vì mọi việc đều có thể bị quy chụp theo hướng chính trị. Mà công cụ của chính trị thì gồm cả quân đội, công an, nhà tù. Trong quá khứ những lực lượng này đã giết chết nhiều nhà thơ Việt Nam, còn hiện nay các nhà thơ chết vì nỗi sợ nhà tù [vô cớ]. Tuy nhiên, cũng có khá nhiều người im lặng, nín thở qua cầu và tự cảm thấy mình khôn, mình tạm thời an toàn, nhưng với nhiều người khác thì im lặng là hèn nhát.

Còn điều này là tốt hay xấu ư? Tôi nghĩ nó không tốt, cũng không xấu. Bởi trong sự suy nhược đến cùng cực, đâu phải ai cũng còn đủ sức để nói về những điều hệ trọng như anh vừa nêu ra. Ví dụ việc phê phán giáo dục, nếu có chuyên môn, tôi chắc cũng không thể nào viết một trang hay vài ngàn trang mà đủ được. Bởi trong một hiện tượng giả tạo đến mê hoặc, băng hoại đến hoàn mỹ, thì sự phê phán thường phải lẽo đẽo theo sau. Một chuyên viên về giáo dục quốc tế sau khi đến Việt Nam khảo sát trong 3 tháng, trước khi lên máy bay về nước, bà đã phát biểu: “Giá như có đôi đũa thần!”. Với hiện trạng như vậy thì trong các nhà thơ, theo anh, ai có đủ chuyên môn để lý giải?

Nguyễn Đức Tùng: Trong thời gian gần đây, một tháng, một năm, năm năm, có một sự kiện xã hội, chính trị, văn học, lịch sử nào đã tạo nên cảm xúc làm nền cho một bài thơ của anh?

Lý Đợi: Có nhiều tác phẩm như vậy. Bởi tôi hay làm tác phẩm theo kiểu đó, trong một hai năm qua. Trong những tác phẩm của tôi luôn có sự liên đới đến các tác phẩm, các văn bản, các văn kiện, các văn cảnh khác. Thử xem một vài tác phẩm mới tại: http://tienve.org/home/authors/viewAuthors.do?action=show&authorId=161

Tôi luôn cố nhúng chân vào thực tế, nhưng thực tế thì không dễ dàng gì để cho tôi làm việc đó. Nó giống như một con (một thằng) điếm, rất sòng phẳng, rất ranh ma, tráo trở.

Nguyễn Đức Tùng: Mở Miệng luôn thể nghiệm những thủ pháp như giễu nhại, cắt dán, lắp ghép… và xuyên tạc những giá trị đã định vị. Sự thể nghiệm đó nhằm mục đích gì?

Lý Đợi: Một câu hỏi hay, nhưng thực lòng mà nói, tôi không có hứng thú, hay chưa có đủ dũng cảm để trả lời – đó là bí mật nội gia. Đơn giản thì đó là một cách làm mà chúng tôi đã lựa chọn, đã thực hiện – mà văn học, nghệ thuật thì có nhiều cách làm lắm, không nhất thiết phải theo cách của bất kì ai. Điều sai lầm mang tính căn đế của những người quản lý văn hoá, nghệ thuật ở Việt Nam là tưởng rằng chỉ có một cách.

Nguyễn Đức Tùng: Xin cho nghe một bài thơ của một nhà thơ Việt Nam đương thời khác mà anh thích nhất hay nhớ nhất. Xin nói về bài thơ đó?

Lý Đợi: Một bài thì khó quá, bởi tôi không đủ cực đoan để nói được ngay rằng mình thích bài nào nhất. Theo tôi thì trong khoảng 5 năm qua, tính luôn bên ngoài Việt Nam, những tên tuổi như Nguyễn Đăng Thường, Nguyễn Quốc Chánh, Đinh Linh, Đỗ Kh., Inrasara, Trần Tiến Dũng, Mộng Lan, Barbara Trần, Phan Bá Thọ, Vương Huy, Vương Văn Quang, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Bùi Chát, Khúc Duy, Miên Đáng, Lynh Bacardi, Huỳnh Lê Nhật Tấn, Nguyễn Quán, Lê Vĩnh Tài, Đặng Thân, Nguyễn Hoàng Tranh, Nguyễn Tôn Hiệt, Mai Văn Phấn, Trà Đoá, Bình Võ, Đỗ Lê Anh Đào, Thanh Xuân, Phương Lan… [còn nhiều nữa] đều có bài thơ đáng đọc. Với thực tế bừa bộn như hiện nay, tìm một bài thơ, một tác phẩm thơ đơn lẻ đáng đọc không khó; tìm một tập thơ, một ý niệm thơ hoàn chỉnh thì khó hơn.

Vì là chỗ quen biết, tôi chủ động tiếp thị 1 tác phẩm đơn lẻ [không phải mới viết] của Bùi Chát, có tên “Cái lồn què” để làm ví dụ. Nguyên văn tác phẩm như sau:

Cái lồn què

Là cái lồn có kinh, ngoài ra còn có thể hiểu như sau:

Ngày xưa, cách đây thật nhiều nhiều năm. Các loài đều chung sống, đối đãi với nhau như bạn bè, riêng đàn bà & lồn là 2 loài ăn chơi đàn đúm & nhậu nhẹt bê tha hơn cả

Vì mắc nợ một món tiền khá lớn, lồn buộc phải ở đợ cho đàn bà. Suốt ngày quanh quẩn trên cơ thể, làm lụng vất vả: từ chăm sóc sắc đẹp cho đến vệ sinh các thứ…

Một hôm. Nhớ giang hồ không chịu nổi, lồn bỏ trốn vài ngày. Chính thế mà đàn bà biết, loài đàn ông yêu thương, đắm đuối mình cũng chỉ vì lồn

Để giữ lồn lại bên mình. Đàn bà tìm mọi cách giăng bẫy, đánh đập lồn tàn nhẫn đến què cả hai chân… sau đó xiềng luôn ở háng

Từ đó, phần bị thiên hạ đàm tiếu, phần vì đi đứng không tiện. Chẳng ai biết lồn ở đâu

Duy bọn trẻ lúc nào cũng nghĩ: đàn bà & lồn, nhất định là một

Chú: Thế mới dại dột

Tôi thích tác phẩm này vì nó rất dễ hiểu, tuy không phải dễ đọc, nhất là với những độc giả sính bệnh đạo đức giả – đạo đức hình thức. “Cái lồn què”, câu cửa miệng của nhiều người Việt, nhất là dân miền Nam, nhưng đúng tích tuồng như thế này thì không phải mấy người tỏ tường. Nhất là câu kết, rất gây ấn tượng, nhất là với những ai trẻ người non dạ, từng vấp nạn ngoại tình hay bị cắm sừng. Câu khẩu hiệu về ý tưởng quảng cáo được xác lập: Cái lồn què, cách nhìn căn nguyên và vui thú về cái lồn.

Nguyễn Đức Tùng: Xin nói ngay, tôi cũng thích bài thơ này.Trong những bài viết của anh rải rác đó đây mà tôi được đọc, dễ nhận ra sự quan tâm chân thành của tác giả đối với các vấn đề xã hội và lịch sử. Trong khi đó, thơ của Lý Đợi và của bạn bè trong nhóm Mở Miệng lại đặt ra những vấn đề khác về nghệ thuật. Bài thơ trên đây của Bùi Chát và nhiều bài khác của Mở Miệng thường có những đề tài hay những ám ảnh về sex và tục. Một số tác giả viết bài phê bình nhóm Mở Miệng, như ta có thể đọc trên talawas, cũng có thể là vì họ cảm thấy lẫn lộn (confused) không hiểu là thơ phá phách, với nghĩa là ít trách nhiệm hơn, hay là thơ mang tính phản kháng xã hội, nghĩa là có trách nhiệm hơn. Anh nghĩ sao?

Lý Đợi: Tôi lại phải trích hai tác phẩm thơ để minh hoạ, bài trên của Khúc Duy:

Canh mướp đắng

Thắp nhang sau ót, rằm không có police,
ăn thịt chó lủng lẳng lắm. Hổm rày thèm
món bà chủ tiềm thuốc Bắc. Ừ! nước trà
sao không rửa cu. Tại trời đen, trình diễn
hửi vớ, ruồi tắm rượu tây. Đô-la đổi
da heo viết lên mạng, mày không có cửa
mình. 3 thằng kiếm tài liệu 3 tháng, không
dám viết, làm sao chịu nổi. Xúm lại rẽ
mồng gà nó, thương quá cái bẹn xuôi ngược
diễn đàn. Luyện em nhỏ bằng hai con tít
xào khô. Ai đẻ ra nó, nửa đêm hứng
tình thọc tay vô háng triết lý cái búa.
Moi được bóp được. Em chỉ chơi mấy tờ
giấy vụn, có làm chi mô. Nứng thì nứng.
văn hóa đầy quần, anh muốn hửi. Tụi bây
Mần ăn sống nhăn.

Tối ngủ sợ cà-fê phở bò mỗi sáng,
sợ lũ chim táo bón, sợ mặc quần, mùi
giầy không phai.

Và tác phẩm dưới đây của tôi, Lý Đợi:

Những gì không đến từ Việt Nam…

+ với Marek Hlasko [1] , và các môn đệ

Những gì [xấu] không đến từ Ba Lan…
Thì đến từ Việt Nam… thế đấy.

Những gì [xấu] không đến từ Đông Âu
Thì đến từ Việt Nam… thế đấy.

Những gì [xấu] không đến từ xã hội chủ nghĩa
Thì đến từ Việt Nam… thế đấy.

Những gì [tốt] không đến từ Ba Lan
Thì cũng không đến từ Việt Nam… thế đấy.

Những gì [tốt] không đến từ Đông Âu
Thì cũng không đến từ Việt Nam… thế đấy.

Những gì [tốt] không đến từ xã hội chủ nghĩa
Thì cũng không đến từ Việt Nam… thế đấy.

Và đây, một tờ giấy chứng nhận rằng:
Hoặc tất cả chúng ta được quyền tự phanh thây
hoặc tự ăn cứt, hoặc tự tủi nhục, hoặc tự tự tử… đều được

Thế đấy… một tờ giấy đỏ đến từ Việt Nam.

Tôi cam đoan, hai tác phẩm này có thể minh hoạ được những thắc mắc trong câu hỏi của anh. “Không hiểu là thơ phá phách, với nghĩa là ít trách nhiệm hơn, hay là thơ mang tính phản kháng xã hội, nghĩa là có trách nhiệm hơn.” Quan trọng, trong vai trò của người đọc, chúng ta đang đứng từ “chiến tuyến” nào để nhìn. Ví dụ trong tác phẩm của Khúc Duy, cái ý niệm quan trọng nhất đến ngay ở câu đầu tiên: “Thắp nhang sau ót, rằm không có police,” – ai đó sờ lại sau ót mình – kiểm điểm lại mình, thắp lên niềm tin, và vì rằm này không có công an theo dõi, mọi việc đều được phép, ngay cả những chuyện riêng tư, nhảm nhí. Sống ở những nơi mà cá nhân bị dòm ngó theo dõi triệt để, cái cảm giác một ngày “không có police” mang lại cho chúng ta điều gì? Tôi nghĩ tác phẩm này đã nói lên được tính “trách nhiệm” của nó.

Còn vấn đề Mở Miệng, lại là chỗ người nhà, cũng thật khó nói tường tận. Những bài trên talawas, chắc anh nói đến bài của Khánh HoàTrần Ngọc HiếuĐỗ Lê Anh ĐàoAn VânPhan Nhiên Hạo… Về các bài viết này, tôi nghĩ cũng cần một sự bình tĩnh và kiên nhẫn khi đọc, vì mỗi người mỗi quan điểm, không ai chịu ai, mà có vẻ như ai cũng có cái lý của mình. Là một người trực tiếp bị đề cập đến, lần này tôi không có ý kiến, như thế sẽ khách quan hơn chăng?

Xin nói thêm, vì ở trên anh cũng đã có hỏi rồi, tôi lại quyết nói thêm về Mở Miệng. Tôi nghĩ, với Mở Miệng, mọi sự lẫn lộn đều có thể xảy ra. Theo tôi thì có mấy lý do: Một, do không đủ thông tin, vì chúng tôi chỉ công bố khoảng 40% tác phẩm và dự định công việc của mình. Mà 40% đó lại là kết quả của Ý niệm, lại bị triệt để hiểu là “có những đề tài hay những ám ảnh về sex và tục.” Bài công kích của báo Công An Tp. HCM mà anh có thể đọc lại tại Spectrum của talawas lại cố tình hiểu khác đi, hay làm lơ trước những vấn đề khác [có vẻ hệ trọng hơn] mà chúng tôi muốn đề cập đến. Trả lời bài này, cách tốt nhất, mời anh cùng đọc lại tác phẩm mà tôi đã gởi cho chính báo Công An, tất nhiên, họ sẽ không bao giờ in.

Những người đáng trọng & những kẻ đáng khinh
(Nhân đọc bài “Nhóm Mở Miệng với thứ rác rưởi được gọi là thơ” trên trang 3, báo CA.TPHCM, số 1406, 22-12-2005.
Và: http://www.baocongantphcm.com.vn/detail_news.php?a=art010995&b=2)

Nòi giống nào đáng trọng?
Thưa nòi giống con người.

Giống nòi nào đáng quý?
Thưa giống nòi biết tôn trọng dân chủ.

Nòi giống nào đáng khinh?
Thưa, cũng nòi giống con người.

Nòi giống nào đáng phỉ nhổ?
Thưa nòi giống làm chó săn.

Giống nòi nào đáng loại bỏ?
Thưa giống nòi miệt thị tự do, miệt thị nhân tính và khoe khang sự ngu dốt…

Còn nữa?
Thưa, làm sao kể hết.

Tại sao?
Thưa, vì bọn chúng chỉ cần tiền-cần quyền-cần danh
Nên sẵn sàng bán rẻ lương tâm
Bán rẻ liêm sỉ
Bán rẻ danh tiết cùng sự hàm hồ…
Để lấy vài xu lẻ của giới quyền lực.

Bọn nó có biết điều này?
Thưa, ban đầu thì biết
Sau thì hết biết, vì bọn nó biến thành máy
Bọn nó biến thành gậy trong tay kẻ khác.

Lời của Doi Ly:Hỡi những kẻ vi phạm các quy ước về quyền tự do làm người
Hỡi những kẻ không biết kính trọng dân chủ
Hỡi những kẻ khinh miệt tự do ngôn luận
Hỡi những kẻ miệt thị tầng lớp lao động bình dân
Hỡi bọn cơ hội mà bị mất cơ hội…

Rồi bọn bay sẽ được toại nguyện vì được đóng hai chữ: ‘đần độn’ trên trán
Rồi bọn bay sẽ được toại nguyện vì lương tri thối rữa…

Ta luôn chờ bọn ngươi bên bờ vực thẳm
Ta luôn thấy bọn ngươi dưới đáy chảo dầu…
Nòi giống nào đáng trọng? Giống nòi nào đáng khinh?
Dân tộc này sẽ thay bọn ngươi để chọn.

(Nguồn: Hc, 10, 12)

Lý do thứ hai của Mở Miệng là chúng tôi có nhiều may mắn hơn những thế hệ trước đó, vì chúng tôi xuất hiện đúng thời cơ hơn, và chọn thái độ sòng phẳng hơn. Vì quan tâm sâu sát tới thế hệ trước, chúng tôi đã có thời gian để chuẩn bị và rút kinh nghiệm. Thay vì gởi tác phẩm đến các Nxb nhà nước để chờ mua giấy phép, và thường không mua được cái tươi sống, y như Nguyễn Quốc Chánh viết trong lời vào tập Của căn cước ẩn dụ“Thật ngô nghê khi vừa muốn tự do vừa muốn cơ chế chuyên chính cho phép. Tôi đã hơn hai lần ngu như vậy. Và trớ trêu cả hai lần (tuy nhọc nhằn) nhưng đều được phép. [bỏ qua 7 đoạn] Viết, in, & phát hành trong sự cho phép, là một cách tiếp tay với sự phản động theo nghĩa là kéo dài những biến tướng. Bởi nó ít có tác dụng thúc đẩy, mà chỉ thêm những kẻ đồng loã với âm mưu bóp chết tự do cá nhân.” [tr.5 & 7]. Với sự sòng phẳng ngay từ đầu, chúng tôi lập Nxb Giấy Vụn để in những tác phẩm của mình và cả của những tác giả khác. Tuyển tập Khoan cắt bê tông với 23 tác giả từ Nam ra Bắc, cùng với hải ngoại, ra mắt năm 2005 là một minh chứng. Về tác phẩm này, anh có thể đọc thêm bài viết của Nguyễn Tiến Văn, hay là Đoàn Cầm Thi.

Và vì xuất hiện đúng thời cơ, chọn đúng thái độ, và đây cũng là lý do thứ ba, chúng tôi có may mắn là mình nhanh chóng có dịp để triển khai các Ý niệm trong cách xây dựng tác phẩm. Điều mà các tác giả trước chúng tôi thường làm rất mờ nhạt; hay gần như không có ý niệm. Họ chỉ nỗ lực làm ra những bài thơ hay, những tập thơ xuất sắc, biệt lập. Tác phẩm, với chúng tôi, là một Ý niệm, một Quá trình hơn là một Kết quả. Nếu chỉ dựa vào kết quả, mọi sự hiểu lầm đều có thể xảy ra… Chúng tôi có đông người hơn nên thuận lợi hơn trong việc lập kế hoạch, “lập thuyết”, phát ngôn, chia công việc và thực hiện nó, liên tục trong nhiều năm. 5 năm hành trình của Mở Miệng và Nxb Giấy Vụn, chúng tôi nghĩ rằng mình đã rất may mắn khi các ý niệm được triển khai một cách đồng bộ và các kế hoạch thì luôn được tuân thủ.

Thêm một lý do nữa, trách nhiệm của Mở Miệng chẳng có gì ghê gớm: Khơi dậy sự vui đùa! Trong một thời gian dài, người ta không biết đùa, không thích đùa; người ta phải sống trong sự nghiêm trọng giả tạo, trong đời sống giả tạo. Mở Miệng xuất hiện ngay lúc mà người ta mới bắt đầu quan tâm tới sự giải trí, tới sự vui đùa, từ chính trị cho đến văn hoá xã hội, văn học nghệ thuật… Cái cách Mở Miệng giễu nhại, đùa cợt, giải nghiêm trọng… có người cho đó là phá cách; có người cho đó là phá phách; có người cho đó là trách nhiệm; có người cho đó là phản kháng; có người cho đó là làm khác, là đổi mới, là nhảm nhí, là tục tĩu, là đa nghĩa, là vô nghĩa… Tùy! Chúng tôi, nói như khẩu hiệu chương trình hài của một MC hàng đầu Việt Nam, Thanh Bạch: “Những người thích đùa”.

Cuối cùng, chúng tôi cũng có may mắn là cùng trang lứa với nhau, có trình độ nhận thức ngang nhau, có một sự quan tâm giống nhau, nên dễ thông hiểu. Và khi chúng tôi xuất hiện, cũng là lúc các phong trào Tân hình thức, chủ nghĩa Hậu hiện đại, Internet, vấn đề nhân quyền, dân quyền… đã đặt chân vào Việt Nam, cơ hội để mở rộng biên độ nhận thức và cập nhật thông tin cũng nhiều hơn. Theo chúng tôi, sự xuất hiện của Internet tại Việt Nam cũng quan trọng như sự xuất hiện của máy in, của chữ Quốc ngữ, của báo chí… trước đó. Nếu báo chí chữ Quốc ngữ góp phần quyết định sinh ra Thơ Mới, sinh ra Tự Lực Văn Đàn, thì Internet cũng sinh ra một thế hệ tác giả, tác phẩm mới của mình, rất quan trọng. Ngoài ra, cũng hoàn toàn do may mắn ngẫu nhiên, chúng tôi có được những tạp chí, website, những diễn đàn của mình, từ Tiền VệtalawasTạp chí ThơeVănHợp LưuVăn… cho đến các tạp chí, báo in trong nước “quan tâm”. Chúng tôi may mắn có được sự đưa tin của nhiều cơ quan thông tin ngôn luận trong nước và quốc tế; và đặc biệt, được sự quan tâm tức thời của những người có chuyên môn sâu trong giới phê bình, nhận định văn học. Tất cả những điều này, có khi là rất bình thường ở các nước văn minh, có nền văn học phát triển, nhưng lại là một ngoại lệ ít gặp trong mấy chục năm qua tại Việt Nam vì rất nhiều các rào cản, trong đó có chính trị.

Anh hỏi đi hỏi lại vài lần. Tiện thể đây, anh thấy tôi có biết cướp diễn đàn không?

Nguyễn Đức Tùng: Thế nào là một ý niệm thơ hoàn chỉnh?

Lý Đợi: Theo quan điểm của tôi, không có ý niệm thơ hoàn chỉnh, tác giả không bao giờ có được tập thơ hoàn chỉnh. Ý niệm phải phát xuất từ cái đề cương khởi điểm mà tác giả nghĩ về tập thơ, sau đó là quá trình hoàn tất tập thơ (cả về thời gian thực hiện và cấu trúc) và công bố tập thơ (thời khắc và phương cách cũng rất quan trọng)… Nhiều người đọc thông thường cứ nghĩ một tập thơ hoàn chỉnh là tập hợp của hầu hết những bài thơ hay, tôi thì không nghĩ thế, bởi những bài thơ hay đơn lẻ thường mâu thuẫn với nhau về ý niệm.

Những tác giả nào không có ý niệm hoàn chỉnh thì các tác phẩm sau thường không thành công bằng các tác phẩm trước, hoặc lặp lại các tác phẩm trước. Nói như thời Thơ Mới, đó là định mệnh từ tác phẩm đầu tiên. Những ý niệm này, thông qua tác phẩm, có thể được “đề ra” từ trước như kiểu Đinh Linh, Bùi Chát…; được “đạt” đến ngưỡng như Nguyễn Đăng Thường, Nguyễn Quốc Chánh, Đỗ Kh., Trần Tiến Dũng…; được “xô” đến như Inrasara, Mai Văn Phấn, Lê Vĩnh Tài… Những tác giả này, ở nhiều cấp độ khác nhau, những tác phẩm sau của họ đều đáng đọc hơn tác phẩm trước, dù mỗi người có một xuất phát điểm khác nhau, một sự ràng buộc khác nhau.

Nguyễn Đức Tùng: Thơ có thể làm được gì cho con người?

Lý Đợi: Nhiều chứ. Với một số người, thơ là cách để giết bớt thời gian dư thừa; với một số người khác, thơ là cách để gây dựng ảo tưởng, mua danh, tìm kiếm sự bất tử… Tại Việt Nam, trong các nhà, nhà thơ gần như được nhắc đến nhiều nhất, số lượng cũng khá đông. Có nhiều bài thơ được viết phục vụ cho các mặt trận, có những bài thơ minh hoạ cho đường lối chính sách, có những bài thơ tuyên truyền, có những bài thơ tỏ tình, có những bài thơ đạo lý, có những bài thơ nhảm nhí… bao nhiêu là lợi ích, làm sao nói hết. Trở lại với câu hỏi của anh: Thơ đến từ đâu? Đến đây thì càng bội phần không biết, vì thơ vị điều này, vị điều kia quá nhiều. Thơ đang bị lợi dụng, đang bị xuyên tạc, đang bị bôi nhọ, đang bị tắc kinh, đang bị liệt dương, đang bị xiển dương… kiểu nào cũng có.

Nguyễn Đức Tùng: Anh nghĩ sao về chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn chương? Nó đã tác như thế nào đến sáng tác của anh?

Lý Đợi: Thêm một phương tiện, thêm một thách thức, thêm một sự nghiêm trọng, và thêm nhiều kẻ khùng điên. Có vài người chứng minh tác phẩm của tôi chịu ảnh hưởng tinh thần hậu hiện đại, tôi nghĩ họ nói đúng. Trong tác phẩm của mình, tôi cố gắng giải nghiêm trọng, dù đôi khi các vấn đề mà tác phẩm đặt ra cũng không tránh khỏi sự nghiêm trọng.

Tuy nhiên, tôi nghĩ để nói về điều này, chúng ta cần phải có một cuộc trò chuyện khác, với các câu hỏi kiểu khác. Và tất nhiên, về diễn đàn cũng như độc giả, cũng cần chuẩn bị một dịp và một tâm thế khác.

Nguyễn Đức Tùng: Đồng ý với anh. Tuy nhiên, tôi có cảm giác rằng nó đã không được giới thiệu đến người Việt Nam theo đúng tinh thần và thái độ nhân bản của nó. Chủ nghĩa hậu hiện đại vừa là thái độ chống lại chủ nghĩa hiện đại vừa là sự nối dài và bổ sung của nó, trước hết là trong cách tiếp cận dân chủ hơn, bình dân hơn, ngoại vi hơn. Có một ngộ nhận ở đây là: đối với những kẻ non nớt, nó gây cảm giác là mọi chuyện trên đời đều được phép và không có chuyện gì là quan trọng cả. Theo anh, đây có phải là điều nguy hiểm không?

Lý Đợi: Tôi nghĩ chủ nghĩa hậu hiện đại, như anh nói là “dân chủ hơn, bình dân hơn, ngoại vi hơn”, nên vấn đề “non nớt” hay không non nớt, chẳng có gì là quan trọng hay nguy hiểm cả – mọi người đều được quyền mà, không phải chỉ là đặc quyền và độc quyền của riêng ai. Sự nguy hiểm, có chăng, là sự đóng băng lâu năm về mặt ý thức hệ, về thói quen nhận thức và nếp nghĩ văn học một chiều, độc tuyến. Có những thứ như luật giao thông, luật nhân quyền, đáng lý phải được tôn trọng triệt để, vậy mà người ta vẫn vi phạm hà rầm, huống chi ba cái lăng nhăng, chẳng có gì là quan trọng như chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học.

Vấn đề thiết yếu lúc này là sự chọn lựa, cái chúng ta cần quan tâm ngay bây giờ là mỗi cá nhân đơn lẻ [trong một thể chế toàn quyền và toàn trị] đang chọn lựa điều gì. Sự chọn lựa ấy có thật sự được bình đẳng hay không, mới là điều quan trọng. Như đã nói ở trên, vấn đề của chúng ta bây giờ là thật-giả, còn những thứ khác như tai nạn hay an toàn, nguy hiểm hay bình yên, thì chưa cần đề cập.

Nguyễn Đức Tùng: Nhà thơ lừng danh W. C. Williams có nói: không thể tìm ra các tin tức trong thơ, thế nhưng hằng ngày, con người vẫn chết thê thảm vì họ thiếu những điều chỉ tìm thấy trong thơ. Theo anh, đó là điều gì?

Lý Đợi: Con người khùng điên, con người hủy diệt không phải vì thiếu hay thừa thông tin, không phải vì thiếu hay thừa thơ. Thơ và thông tin chẳng có liên quan, hay quyết định gì nhiều trong chuyện này – tất cả phụ thuộc vào 3 chữ mà nhà Phật đã xài rất lâu rồi: Tham – Sân – Si. Không hệ lụy vào 3 chữ này, thế giới không có gì đáng phàn nàn. Nước Mỹ hiện nay là một ví dụ, họ có tập đoàn công nghệ thông tin lớn số 1 thế giới, thế nhưng chiến tranh cũng đến từ họ rất nhiều. Bởi vì họ quá tham sân si nên tìm mọi cách để chinh phục thế giới phục vụ cho mình; bắt thế giới sống giống như mình. Việt Nam hiện nay cũng thế, được xem là Nước Thơ, thế nhưng mỗi ngày có khoảng 40 người bị chết do tai nạn giao thông, hàng chục ngàn người bị cửa quyền ngược đãi. Vấn đề của xã hội hiện nay không phải là có thông tin hay không, mà vấn đề là phải giải quyết, xử lý các thông tin đó như thế nào. Quan trọng hơn nữa, các thông tin đó có chuyên chở những yếu tố nhân vị, có bồi dưỡng tâm tính-nhân tính của con người, có thúc đẩy sự phát triển các môi trường tự do, dân chủ, hướng đến quyền lợi số đông hay không thì mới đáng nói. Mọi sự độc quyền, tập quyền… đều dẫn đến sự mâu thuẫn, sự thê thảm.

Nguyễn Đức Tùng: Cuối cùng, anh nghĩ gì khi trả lời bài phỏng vấn này? Anh sẽ làm gì sau khi bài trả lời phỏng vấn này in trên talawas?

Lý Đợi: Quá dài và quá mệt. Chúng ta đã làm việc một mạch, liên tục trong nhiều ngày. Tôi đã gần như không kiểm soát được vấn đề nên phát biểu lung tung, càng về sau càng nhạt, càng về sau càng muốn quẹo sang hướng khác. Có vẻ như chúng ta đã bị lạc đề, nhưng cũng đâu có sao, đã và sẽ có những người khác đi đúng hơn. Tôi cảm ơn anh vì chúng ta đã làm việc với nhau vui vẻ. Hoá ra, tôi cũng rất hỉ nộ ái ố!

Còn sau bài phỏng vấn này ư? Tôi sẽ làm một tác phẩm để phục vụ cho những người đánh số đề, vốn là những kẻ mơ mộng và thi vị bậc nhất của các khu ổ chuột. Tôi đang sống trong đó mà. Ví dụ như chuyện giải mã các giấc mơ để đánh số. Thử đọc một tác phẩm:

Ỉa đái nằm ngủ

Phải lội xuống ao ỉa: 07
Cứt bê bết đi mưa: 14, 51
Nhiều hũ nước đái: 96, 69
Cứt bám ngón tay: 00, 05
Chuồng xí: 39, 67
Dọn nhà vệ sinh: 26, 62
Ỉa bậy chùi đít không sạch: 86, 98, 49, 39
Cứt đầy ống quần phải thay: 91, 92
Chim ỉa vào người: 27
Trông thấy hai đống cứt tròn: 01, 02, 20
Đi ỉa: 86, 98
Cứt: 63, 13
Đi đổ cứt: 15, 16, 61
Ngủ lang: 96, 86
Ngủ: 04, 54, 92
Nằm đất: 92
Cứt vứt vào nhà: 63
Nước đái có màu: 43
Đi đái dắt: 98, 99
Đi ỉa chảy: 01, 06
Đi ỉa gặp người: 67, 76
Đi ỉa đông người: 08, 09
Cứt bắn lên mặt: 03, 07
Sửa lại hố xí: 79, 70
Chuyển nhà xí: 09

Tin thì tin, không tin thì thôi
Việt Nam nó thế…!
Mọi sự thắng thua, không liên quan đến tôi.

(Trả lời từ La Hán Phòng, 9/2006)

© 2006 talawas


[1]Marek Hlasko (1934 -1969), nhà văn nổi loạn có tiếng nhất của Ba Lan vào thời hậu Stalin. Tiểu thuyết đầu tay của ông, Ngày thứ tám trong tuần, đã được dịch giả Hoàng Ngọc Nguyên chuyển ngữ và đăng trên trang Tiền Vệ

Share this post

Share on facebook
Share on google
Share on twitter
Share on linkedin
Share on pinterest
Share on print
Share on email

Leave a Reply